 |
Trong số nầy |
|
|
|
|

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |

hư Hiền thân kính,
Hồi tưởng lại, kể từ ngày 23 tháng 11 năm Ất Sửu (dl, 07-01-1926) Đức Cao Đài truyền dạy hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc Cơ đến nhà Ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn cho Đức Chí Tôn dạy việc. Ít lâu sau đó, đêm 12-02-Bính Dần (dl. 23-04-1926) Đức Chí Tôn sắp đặt cuộc Thiên Phong cũng tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, ân phong cho Ngài là Thượng Đầu Sư, Thánh Danh Thượng Trung Nhựt, cùng một lượt với Ngài Ngọc Lịch Nguyệt.
Từ ấy, Ngài đã vâng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn hiệp cùng chư Chức Sắc Thiên Phong và Đạo Hữu thảo Tờ Khai Đạo và đích thân đem tới Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol và được Ông vui vẻ tiếp nhận ngay. Kế đó, ngày Rằm tháng Mười năm Bính Dần, Ngài hiệp cùng Đức Hộ Pháp và chư Chức Sắc Đại Thiên Phong vâng lịnh Đức Chí Tôn, mượn Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén) làm Thánh Thất tạm, để tổ chức Đại Lễ Khai Đạo Cao Đài có đủ sự tham dự của Quan Chức Chính Quyền và các Tôn Giáo bạn.
Thiết nghĩ, đó là một đại công đầu tiên của Đức Ngài xứng đáng được Hội Thánh chọn đặt Bửu Tượng trước Đền Thánh nhìn về hướng "Tây Độ" và Bửu Tháp ngay sau Tổ Đình. Đồng thời, thể hiện Thánh Ý của Đức Chí Tôn và sự xác nhận của Đức Hộ Pháp qua lời thuyết Đạo rằng: Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, ngôi vị tại Thế là vị Giáo Tông hữu hình của Đạo Cao Đài, còn Đức Lý Đại Tiên chỉ kiêm ngôi vị Giáo Tông Thiêng Liêng.
Bản Tin Hòa Hiệp thứ 33 vào dịp kỷ niệm Ngày Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ năm thứ 98 nầy mang chủ đề "Kỷ niệm Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung", chỉ đề cập những nét rất sơ lược, dĩ nhiên không nêu rõ nhiều Công Đức siêu việt của Đức Ngài về Đạo lẫn Đời. Xin chư Hiền tìm hiểu và tham khảo thêm, để học hỏi gương sáng của bậc Anh Cả trong nền Đạo Cao Đài.
Chúng tôi thân mời bạn đọc hãy theo dõi nội dung các tiết mục:
- Bài "Diễn Văn về Sự tích của Quả Càn Khôn và Pho tượng của Đức Hộ Pháp" của Ngài Hiến Pháp HTĐ; - Bên dòng Sử Đạo; - Luận Đạo Chơn Ngôn (Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt); - Lễ Khánh Thành Thánh Thất Cần Giuộc (Hiến Đạo); - Hạnh Đường: "Quyền hành của Chánh, Phó Trị Sự và Thông Sự" (Pháp Chánh Truyền); - Phổ Cáo Chúng Sanh (Thượng ĐS Lê Văn Trung); Thơ Ái Nhân... và nhiều tiết mục khác rất bổ ích cho việc trau giồi kiến thức và đạo đức trong đời sống hàng ngày.
Nếu tôi không lầm, văn hào Pháp François Rabelais đã từng nói :"Khoa học mà không lương tâm thì chỉ làm băng hoại linh hồn", (dịch: Pháp văn "Science sans conscience n’est que ruine de l’âme"); (hoặc "Science without conscience is but the ruine of the soul", English). Thực vậy, văn minh khoa học ngày nay càng đưa hành tinh đến tiến bộ vật chất, con người, theo đó, càng tăng thêm tham dục vật chất hơn tinh thần. Đó là một trong muôn ngàn lý do, trước đây hơn 98 năm, Đức Chí Tôn hạ trần khai mở Đạo Cao Đài cho kịp lúc cứu vớt sanh linh từ cuối Thế Kỷ 20. Theo đó, Chư Vị Tiền Khai đã sớm giác ngộ, xả thân làm Thiên Sứ phổ độ chúng sanh khắp cả Ngũ Châu hồi đầu hướng thiện.
Về phần kẻ hậu bối, chúng tôi luôn mong mỏi Chư Hiền, nhứt là thế hệ trẻ, hãy vì sự nghiệp Đại Đạo dấn thân chung sức học Đạo và hành Đạo, hầu lập ngôn hoằng hóa và phổ độ chúng sanh giải thoát mê lầm, tham đắm đang lôi cuống Thế giới đến viễn tượng đao binh tự diệt không phương cứu vãn.
Cầu xin Ơn Trên, Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và Chư Thiêng Liêng ban bố tràn đầy ân lành cho toàn tất chúng con đang khẩn nguyện thành tâm sám hối.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
BAN BIÊN TẬP
|

Từ Lâm Tự (18-10-Bính Dần)
Mardi 23 Novembre 1926
THẦY, các con
Các con chớ nên phiền hà; chuyện Thánh Thất xảy ra, ấy cũng một bước trắc trở trong đường Ðạo của Thầy. Thầy còn phải đau lòng thay, nhưng cũng là nơi Thiên Cơ vậy; Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chìu ý của mỗi đứa mà xây đắp nền Ðạo, vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức. Sự xảy ra nơi Thánh Thất, tuy là nơi mối Ðạo chậm trễ, nhưng cũng do nơi lòng tà vạy của nhiều đứa mà ra, vì tâm trung chánh đáng thì là làm cốt cho Tiên Thánh; còn tâm chí vạy tà là chỗ của tà quái xung nhập. Chi chi cứ tưởng có Thầy giúp mà lập xong nền Ðạo cho các con là đủ. Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà; các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng
thẳng đi lần tới; đừng gấp quá, mà cũng chớ thối lui, thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.
Thầy ban ơn cho các con, Thầy thăng.
Mercredi 24 Novembre 1926
(19-10-Bính Dần)
THẦY, các con
Các con, Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra một trường Tà Quái mà Thầy bắt đau lòng đó các con.
Các con thiết nghĩ ra lẽ nào?
Ðó là bước Ðạo, đó là Thiên cơ, các con hiểu sao được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút. Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê chữ vinh sang mà ngán đạo. Các con hiểu: Thầy buồn, nhưng ấy là máy Trời đã định chạy sao cho khỏi? Thầy biết bao lần vì các con mà chịu nhọc nhằn.
Từ khai Thiên lập Ðịa, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao nhiêu điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy lúc vang mày, nuôi nấng các con, hầu lập nền Ðạo; cũng tưởng cho các con lấy đó làm đuốc soi mình đặng cải tà qui chánh.
Mấy lần vun đắp nền Ðạo, Thầy cũng đều bị các con mà hư giềng đạo cả.
Thầy buồn đó các con.
Thầy ban ơn cho các con, Thầy thăng.
Tái Cầu:
Các con nghe Thầy: Sự biến xảy ra đến nay đã thành một trường ngôn luận, có khi cũng náo nhiệt đến nền Ðạo; kẻ gọi tà, người nói chánh, nơi Thiên Thơ đã có dấu ràng ràng, các con có đi tranh luận cũng nhọc công vô ích, kẻ hữu phần người vô phước, tin tin, không không, cũng chẳng sửa cơ Trời đặng. Ðường càng dài, bước càng nhọc, thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ.
Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải; nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã ngã lòng; mới đạp chông, toan trở bước. Thầy cũng phải đau lòng, mà nắm máy huyền vi, để cơ Trời xây đổi; các con liệu lấy.
Phụ ghi:
• Mardi 23 Novembre 1926 (18-10-Bính Dần) nhằm ngày Thứ ba, 23-11-1926 (âl. 19-10-Bính Dần).
• Mercredi 24 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần) nhằm ngày Thứ tư, 24-11-1926 (âl. 20-10-Bính Dần).
Trích từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1 bài 46 & 47. Thánh giáo giải thích việc xảy ra tại Từ Lâm Tự và Thánh giáo dạy tiếp việc xảy ra tại Thánh Thất.◙ |
Ðã từng muôn kiếp có tên Ta,
Ta bởi Ðạo Trời mở cửa ra.
Ra để rước người lành đến ở,
Ở chung một cõi lại chung nhà.
Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng mơ căn nghiệt một đời nầy.
Hữu duyên độ thấu nguồn Chơn Ðạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay. |
Trích từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển nhứt Thi Văn Dạy Đạo.◙ |
|
|

 |
của Đức Hộ Pháp |
|
Tại tháp của Ðức Quyền Giáo Tông. Hồi 8 giờ, ngày 13 tháng 10 năm Ðinh Hợi (1947).
gày nay là ngày kỷ niệm Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, ấy là ngày Bần Ðạo quả quyết rất trọng hệ và quí hóa cho Cửu Trùng Ðài.
Bần Ðạo quả quyết nói với bằng chứng hiển nhiên là bạn đồng thuyền, Bần Ðạo biết rõ giá trị của Thượng Trung Nhựt là dường nào.
Tuy vân, ngôi vị Giáo Tông Ðạo Cao Ðài do Ðức Lý cầm quyền gìn giữ Thánh chất dung hòa nửa Thánh nửa phàm còn tạo ngôi vị tại thế là Thượng Trung Nhựt đó. Ấy vậy Thượng Trung Nhựt tạo ngôi vị Giáo Tông cho Ðạo Cao Ðài như ông Thánh Saint Pierre tạo ngôi Thánh Hoàng cho Pha-Pha tại Rome vậy.
Ôi! Buổi Chí Tôn đến một cách đột ngột tình cờ, đến trong thế kỷ 20 nầy mà nhơn loại đang sống thảm khổ từ thể chất đến tinh thần, Ngài xưng tên làm cho cả thảy ngạc nhiên, nhứt là chúng tôi buổi nọ đang đi trong con đường thế tối tăm ngày ấy người niên kỷ cao hơn hết là Thượng Trung Nhựt, chúng tôi có hỏi Người: Est ce possible? (Có thể có không?) vì còn đang mờ hồ, chúng tôi chẳng khác chi ở trong địa huyệt đang tiềm tàng con đường sáng, chúng tôi còn tăm tối, may thay! Người có duyên tiền định đến dìu dắt chúng tôi ra khỏi chốn địa huyệt âm u, nhờ hai con mắt sáng của người làm dẫn đạo.
Khi chúng tôi hỏi: Est ce possible? (Có thể như vậy chăng?). Người trả lời: C'est bien possible (Có thể có như vậy lắm). Bởi thiên hạ đang khổ thảm nên Ðấng ấy đến không phải là lạ. Ta thấy trong gia đình đau khổ, mà ông cha chưa phải chết thì sự thương yêu đối với con cái nồng nàn sẽ được ông cha ấy hiện diện. Người quả quyết rằng: "Ðấng ấy đến buổi nầy thật là Chí Tôn đó vậy". Nếu không phải Chí Tôn không ai chịu nổi đau thảm kia được.
Vì thành tâm, nguyện vọng của Người cảm xúc tới cõi Hư Linh làm cho Chí Tôn và cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều động lòng. May thay! Chí Tôn đến lập nền Quốc Ðạo cho chúng ta tại nước Việt Nam thì không có gì vinh diệu cho giống nòi chúng ta hơn nữa.
Thảng sau nầy, Tôn Giáo Cao Ðài sẽ làm môi giới chuẩn thằng cho một nền văn minh tối đại thì tôi quả quyết rằng nền văn minh ấy sản xuất ra do tâm lý của Thượng Trung Nhựt mà chớ. Ôi! Bao nhiêu công nghiệp, chúng ta nghĩ lại đều nhớ buổi ban sơ đương lúc tâm lý hoang mang tranh đấu sự sống còn, nhứt là tâm lý nòi giống Việt Nam đương mưu đồ giải thoát ách nô lệ, ai còn tin khi ta nói ra những điều mà ai cũng cho là mơ hồ, bởi cả tâm lý còn hoang mang. Ðến các bạn đồng thuyền, đồng chung tâm lý với Người có đủ trí thức hiểu biết chí hướng cao thượng của Người mới theo Người, mà trong cảnh hoang mang còn phản phúc thay, huống chi quốc dân Việt Nam. Ngài đã để đức tin quyết tạo nên hình thể Quốc Ðạo cho quốc dân Việt Nam, thì chính quốc dân trở lại nghịch thù, làm cho
trọn một kiếp sanh của Người phải đau thảm đổ lụy bao phen trước khi chết.
Bần Ðạo quả quyết rằng: Trót một đời người, tìm chưa ra một mặt biết thương nòi giống với một tâm lý nồng nàn như Thượng Trung Nhựt, Bần Ðạo chưa thấy được hai người như vậy, nếu chẳng vì tình yêu ái vô hạn thì người chẳng hề hủy thân danh tạo nên hình thể Ðạo để lại cho quốc dân, cái đại nghiệp tinh thần nầy sâu xa chừng nào quốc dân hưởng lâu chừng nấy, sâu xa chừng nào lại càng quí hóa thêm nữa càng ngày càng tăng giá trị và thiên hạ sẽ biết tấm lòng yêu ái của Thượng Trung Nhựt biến ra một quốc hồn kiên cố.
Cả thảy ai là quốc dân Việt Nam đều phải cúi đầu và vâng theo ý chí cao thượng ấy, không có một lưỡi gươm nào tiêu diệt được nghiệp của Người để lại cho nòi giống Việt Nam đó vậy.
Phụ ghi:
Ngày âl. 13-10-Đinh Hợi nhằm ngày (dl. 25-11-1947).
Trích từ Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp Q.1 bài 42 Tại tháp của Ðức Quyền Giáo Tông.◙ |
... ... ... "TÂM các con vừa động Thầy đã biết rõ, vì TÂM các con là một phần thiêng liêng của Thầy ban cho, vậy tư tưởng các con Thầy đều biết, khá tìm hiểu."
Do đó chúng ta biết DÂN TÂM tức là THIÊN Ý và theo thể pháp của Ðạo, duy có quyền Vạn linh đối với quyền Chí Tôn mà thôi.
Lúc ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG còn tại thế, Ngài có tiếp một bài thi của Ðức Chí Tôn như sau đây:
Nghiêng vai gánh vác đạo nhà Nam,
Gắng khổ chìu tâm độ tánh phàm.
Khổ ấy về sau danh phận xứng,
Chăm lo trách nhậm mới gìn kham.
Ngài thường nói với các chức sắc gần gũi với Ngài: "Tuy qua đi hành đạo vất vả cực nhọc nhưng qua vẫn vui lòng, vì đối với Thầy, tâm qua được trong sạch, đối với nhơn sanh tâm qua được thơ thới an vui vì làm tròn nhiệm vụ. Ngoài đời người ta được thưởng công bằng tiền bạc, trong cửa đạo chúng ta được thưởng công bằng sự ban khen phủ ủy của lương tâm.
Những tiếng ban khen ấy đối với qua không lấy vật chi quí báu của đời mua được".
Quí hóa thay lời nói của người Anh cả chúng ta. Ngày nay bậc cao khiết ấy đã về với Thầy rồi, lời nói trên đây còn văng vẳng bên tai của kẻ viết bài này.
... ... ...
Trích đoan bài viết LƯƠNG TÂM của Ðức Thượng Sanh viết để tưởng nhớ hai Ðấng Hiền Triết của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ: Ðức Quyền Giáo Tông và Ðức Cao Thượng Phẩm / Tiểu Sử và Lời Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang.◙ |
|
|

 |
của ÐỨC THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG |
|
LIÊM KHIẾT
(Bài Thuyết Ðạo của Ðức THƯỢNG SANH)
rong xã hội, phần nhiều những người có tinh thần Nho học và có nhiểm mùi đạo đức, đều gồm có những đức tính cao quí như Trung, Hiếu, Nghĩa, Liêm, Chính.
Liêm là một đức tính ít người được có và những ai đã thực hành được chữ Liêm cũng cho là bậc phi thường trong thiên hạ.
Liêm là gì?
Liêm tức là thanh liêm, liêm khiết, hay khiết kỷ, là bản tánh trong sạch, không nhơ bợn một mảy gì, một vật gì, một món tiền của nào bất chánh, không phải do nơi công lao của mình làm ra.
Có người chịu lao lực vất vả suốt ngày, đầu tắt mặt tối để được hưởng một món tiền vừa đủ nuôi thân, nhưng vẫn bằng lòng với số phận. Nếu có ai đem cho một số tiền lớn và xúi giục làm một việc bất công, thì nhất định không nhận, thà chịu ở trong cảnh nghèo mà được trong sạch.
Xưa dưới triều đại của những đấng minh quân thì dân được giáo hóa trong tinh thần Nho giáo, nên phần nhiều là người có đức hạnh và nhơn phẩm cao qúi, trừ ra một phần ít là hạng người thất học, mới có những tánh xấu, tham lam hèn hạ mà thôi.
Còn những quan cai trị là những bậc liêm chánh, giữ mình thật trong sạch để làm gương cho đoàn hậu tấn.
Cụ Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều có tả đời thung dung tự toại của vị quan liêm chính bằng hai câu:
"Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu tao."
Ðó là lấy tích ông Triệu Biên đời Tống làm quan thanh liêm đến nỗi khi đi phó nhậm chỗ nầy sang chỗ khác, chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn Cầm chứ không có món chi đáng giá.
Những hạng người chơn chánh như vậy, Nho giáo cho là hạng Quân tử. Quân tử đây có nghĩa là cao thượng đáng tôn kính.
Hạng Quân tử không bao giờ quan tâm đến sự phú quí.
Không phải là họ ghét sự phú quí, mà chỉ vì họ trọng đạo quá nên phú quí không đủ mãnh lực làm cho họ phải thèm muốn. Hơn nữa, họ cũng quan niệm hể vi phú thì bất nhân, thà vi nhơn bất phú.
Ðức KHỔNG TỬ dạy rằng: "Giàu sang ai cũng muốn, nhưng không lấy đạo nghĩa mà được thì quyết không nhận. Nghèo hèn ai cũng ghét, nhưng không lấy lẽ phải làm cho khỏi thì đành chịu nghèo". Ngài nói: "Ăn cơm hẩm, uống nước lã, co tay gối đầu thật là cảnh buồn mà ta có thú vui trong đó, còn làm điều bất nghĩa mà được giàu sang, ý ta coi như đám mây nổi".
Tánh liêm khiết nâng cao giá trị con người và làm cho người được thơ thới, dầu cho ở trong cảnh nghèo khó người ta cũng hảnh diện tự tìm sự vui trong chỗ thanh cao khác thường của mình, vì ngó lên không thẹn với Trời, dòm xuống không hổ với thiên hạ.
Người thanh bần như vậy thì vui sướng hơn kẻ giàu mà sâu mọt, lường công tham của, thâu đa nạp thiểu, hoặc lợi dụng quyền thế để rút rỉa dân nghèo khép chặt cửa công, mở rộng cửa tư để dục vọng được thỏa mãn.
Vì làm giàu với những hành động bất chánh nên họ vẫn cứ phập phồng lo sợ không biết cơ mưu sẽ bại lộ ngày nào.
Ðó thiệt là "Thanh bần thường lạc, trược phú đa ưu". Lại có câu "Hoạnh tài bất phú", ham dụng của phi nghĩa rốt cuộc cũng không hưởng được bền lâu, phép nước dầu không trừng trị thì luật Trời cũng không thứ tha, thiện ác đều có sự báo ứng.
Sau đây là một gương liêm khiết của người quân tử, đã được lưu truyền muôn đời ca tụng.
Ðời Chiến Quốc có người lượm được hòn ngọc quí, bèn đem dâng hiến cho quan thái thú tại chỗ là Tử Hản để cầu thân, vị quan nầy nhứt định không nhận, người dâng ngọc thưa rằng: Ngọc nầy tôi đã đem cho thợ mài ngọc xem, quả đúng là một bảo vật mới dám đem dâng cho quan lớn, xin quan lớn nhận dùm cho tôi vui lòng.
Tử Hản nói: Ngươi có ngọc là báu của ngươi, còn ta giữ tánh liêm khiết là báu của ta. Ngươi cho ta ngọc, nếu ta thâu nhận thì cả hai đều mất của báu. Vậy ngươi cứ đem về, ngươi giữ của báu của ngươi, ta giữ của báu của ta. Như thế, hai người đều còn của báu, há chẳng hay hơn sao?
Người dâng ngọc liền thưa: tôi là thường dân mà cầm ngọc nầy, sợ phải bị trộm cướp mà hại đến thân, nên không dám giữ nó.
Tử Hản bèn lưu người ấy lại kêu thợ đến mài ngọc, bán dùm được một số tiền lớn rồi giao cho đem về làm vốn sanh nhai.
Trong một bài Thánh giáo, Ðức CHÍ TÔN có nêu gương hai nhà hiền triết thuở xưa mà đời còn nhắc nhở trong hai câu:
"Hớn Lưu Khoan trách dân bồ tiên thị nhục,
Hạng Trọng Sơn khiết kỷ ẩm mã đầu tiền."
Thánh giáo có giải rằng: Ðời Hớn ông Lưu Khoan lấy đức trị dân, khi dân phạm tội thì đánh bằng cái roi bồ, roi lát để tượng trưng sự răn phạt vậy thôi, chớ không bắt tù đày chi hết.
Còn nước Hạng có ông Trọng Sơn giữ tánh liêm khiết cho đến đổi khi dẫn ngựa đến suối cho uống nước, lấy tiền quăng xuống suối, để trả tiền nước.Ý muốn tỏ, dầu nước suối là của thiên nhiên, cũng không muốn nhơ bợn, không thèm lợi dụng.
Trong cửa Ðại Ðạo, Ðức CHÍ TÔN đã từng dạy Chức sắc phải giữ mình thật trong sạch.
Có trong sạch, người hành đạo mới biết tự trọng, biết lẽ công bình, dìu dắt nhơn sanh trên đường Thánh đức.
Vả lại, người tu hành đã gọi là Xả thân cầu Ðạo quyết hiến thân cho chủ nghĩa thương đời thì liêm khiết là một đức tính đương nhiên phải có. Chức sắc thiếu liêm khiết, cửa Ðạo là bến chợ đời chớ không còn là cửa Ðạo nữa.
Ðức CHÍ TÔN có dạy rằng: "Thầy nhớ xưa kẻ mộ Ðạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình, hài gai áo bả, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau xiêu giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy không bợn nhơ mới có thể lập ngôi cho mình được".
Bậc chơn tu xưa được như vậy, nay Ðức CHÍ TÔN chẳng phải không thể dạy con cái của Người được như hạng cao khiết ấy, nhưng trên có lời giáo hóa dưới phải cố gắng thực hành thì kết quả mới khả quan, tâm phàm mới trở nên chí Thánh.
Nói tóm lại, Liêm khiết là một đức tính đáng kính của bậc Hiền nhơn quân tử. Quí hóa thay; nếu trong cửa Ðạo Chức sắc đồng nêu gương Liêm khiết để tạo một uy tín vẻ vang đối với mặt đời thì nhiệm vụ phổ độ của chúng ta sẽ trở nên nhẹ nhàng thơ thới./.
(Trích Thông Tin số 10, ngày 11/8/1970)
Trích từ Tiểu Sử và Lời Thuyết Đạo của Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang. Bài Thuyết Ðạo của Ðức THƯỢNG SANH - Liêm Khiết.◙ |
Trọng câu phước đức dạ lo nhân,
Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.
Phú quí ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an. |
Trích từ Đạo Sử Quyển II Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929).◙ |
|
|

 |
của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài |
|
BÀI THUYẾT ĐẠO
Nhơn dịp Lễ KHÁNH THÀNH QUẢ CÀN KHÔN mới và
Lễ an vị pho tượng của ĐỨC HỘ PHÁP trên Thất Đầu Xà
lúc giờ Tý ngày rằm tháng chạp Quí Mão (dl. 29-01-1964)
Kính thưa Hội Thánh,
Kính thưa Chư Chức Sắc, chức việc và Đạo Hữu nam nữ.
hơn dịp lễ Khánh Thành Quả CÀN KHÔN mới và Lễ an vị pho tượng của ĐỨC HỘ PHÁP trên Thất Đầu Xà, tôi xin được giải sau đây sự tích Quả Càn Khôn và ý nghĩa lễ an vị pho tượng của Đức Hộ Pháp.
I. SỰ TÍCH QUẢ CÀN KHÔN
Sau khi mở Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm Bính Dần (1926) ngày 17 tháng 9 năm 1926, ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ dạy chư Chức Sắc cao cấp phải tạo một trái CÀN KHÔN tròn quay như Trái Đất, màu xanh da trời, trên có vẽ cung BẮC ĐẨU và TINH TÚ. Thầy kể Tam Thập Lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở trên không khí, tức không phải Tinh Tú, còn lại Thất Thập Nhị Địa và Tam Thiên Thế Giới thì đều là Tinh Tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao phải vẽ lên cho đủ. Tại ngôi Bắc Đẩu phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ. Trên sao Bắc Đẩu vẽ con mắt Thầy, vì là cơ mầu nhiệm tạo hóa trong ấy. Đáng lẽ trái đất ấy phải bằng chai, đúc trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giới đó. Nhưng làm chưa kịp thì phải tùy tiện làm thế nào cho kịp kỳ
Đại Hội.
Thể theo Thánh ý của ĐỨC CHÍ TÔN, chư Chức Sắc hiệp sức nhau kiến tạo quả Càn Khôn đầu tiên đặt lên trên một trụ cốt nơi Bát Quái Đài để cho toàn Đạo sùng bái và chiêm ngưỡng.
Sau lại vì sự rủi ro, quả Càn Khôn ấy phát hoả, cháy tiêu hết, duy có Thiên Nhãn thì còn lại y nguyên.
Vì sự linh thiêng ấy mà toàn Đạo càng thêm tin tưởng và đến khi tu tạo lại quả Càn Khôn khác, tất cả đều quyết định đặt Thiên Nhãn cũ ấy lên quả Càn Khôn mới.
Đến nay quả Càn Khôn sau cũng vì thời gian mà hư hoại, Hội Thánh quyết định kiến tạo quả Càn Khôn khác thay thế vào. Hội Thánh cũng đồng tình biểu quyết dành lại Thiên Nhãn cũ để đặt lên quả Càn Khôn mới ngày nay. Đó là do lòng tín ngưỡng cao cả của toàn Đạo không ai có quyền phủ nhận.
Một sự linh thiêng ngoài tưởng tượng của mọi người. Sau khi hạ quả Càn Khôn cũ, cả thế giới và trong Đạo đều chấn động. Trong Đạo thì xảy ra nhiều điều rối rắm gây sự bất hoà giữa người Đạo làm cho mất sự êm ấm điều hoà, đến nỗi ĐỨC LÝ NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM giáng cơ quở trách và ngưng công việc cầu phong, cầu thăng. Ngoài đời thì có nhiều thay đổi, chẳng hạn như cuộc cách mạng của Hội Đồng Tướng Lãnh, vụ mưu sát Tổng Thống Mỹ, Nhà vua Thái Lan và nhiều cuộc biến chuyển khác trên toàn thế giới.
Cuộc biến chuyển này, ĐỨC HỘ PHÁP cũng đã tiên tri trong bài Thi sau đây:
Chẳng phải Tây Ninh chịu nạn nghèo,
Cuộc đời biến chuyển rất cheo leo.
Trời còn đất lở tang thương biến,
Ruộng rẫy phố phường lộ mốc meo.
Sắc tướng thinh âm tua giảm bớt,
Thêm đường công quả chúng làm theo.
Văn chương đâu rõ thông cùng lý,
Chánh trị hưng suy đã thấy dèo.
II. Ý NGHĨA LỄ AN VỊ ĐỨC HỘ PHÁP TRÊN THẤT ĐẦU XÀ
Về công nghiệp của ĐỨC NGÀI, thì toàn Đạo ai ai cũng đều hiểu biết, tôi có kể ra đây cũng là thừa.
Tôi chỉ xin trích lục dưới đây lời Thuyết minh của ĐỨC NGÀI nhân lễ Trấn Thần ĐỀN THÁNH, ngày 6 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1947).
Khi trấn thần Ngai HỘ PHÁP ngự, Ngài trấn chữ KHÍ, có một con rắn bảy đầu quấn vào dưới ngai Ngài, ngóc lên sau lưng ba đầu, gục xuống bốn đầu, cái mình quấn Ngôi Thượng Phẩm, cái đuôi quấn Ngôi Thượng Sanh.
Rắn Thần bảy đầu tượng trưng cho người có thất tình : Ái, Ố, Dục, Hỉ, Lạc, Nộ, Ai.
Ba đầu rắn ngó lên sau lưng Hộ Pháp là : Hỉ, Lạc, Ái. Người tu nên luyện tập nâng đỡ ba tình: Vui, Mừng, Thương ấy. Còn bốn tình kia: Ai, Nộ, Ố, Dục thì đè xuống đừng cho ngóc đầu lên.
Khi ĐỨC HỘ PHÁP trấn Pháp, hành bí Pháp cùng thể pháp các Đàn, Vía, Sóc, Vọng. Khi ngài đứng là chuyển Pháp, Ngài ngồi là trụ Pháp, nên khi Ngài ngồi, hai chân đạp hai đầu Ai bên tả, Nộ bên hữu, hai tay đè Ố bên Hữu, Dục bên tả.
ĐỨC NGÀI nói: Khi HỘ PHÁP trấn trên Thất Đầu Xà là đè nén các vật dục ở thế này gom lại khỏi cấu xé nhau, để MỪNG, VUI, THƯƠNG cho mọi người chung hưởng Thái Bình, để gìn giữ đạo đức tu hành dễ dàng, nước nhà thanh trị, e sau này HỘ PHÁP xuất ngoại Thượng Sanh về ngự nơi đuôi thì tự do thất tình lôi cuốn, cấu xé lẫn nhau, không phương kềm chế, ấy là cơ thử thách nội và ngoại.
Ngày nào HỘ PHÁP trấn lại trên Ngai thì mới có thể dễ dàng mọi việc Đời Đạo. Quyền Thiêng Liêng phải vậy đặng vay trả cho sạch oan khiên, mới đem thuần phong mỹ tục vãn hồi hoà bình trật tự, tháng Thuấn, ngày Nghiêu, trở nên Thượng Cổ.
Vì lời tiên tri trên của ĐỨC HỘ PHÁP mà HỘI THÁNH rất lo ngại nên quyết định đúc tượng của ĐỨC NGÀI gấp rút để trấn an trên Thất Đầu Xà, nghĩa là trấn áp phần nào Thất Tình của con người, đặng tránh bớt biến cố trong Đạo, vì lời tiên tri ấy đã thực hiện rõ rệt từ ngày Thượng Sanh về cầm quyền tối cao trong Đạo. Có nhiều hiện tượng cho thấy thất tình đã dậy, gây sự bất hòa giữa người Đạo với người Đạo.
Tuy nhiên, nếu chúng ta biết thận trọng trong các hành vi và trụ vững tinh thần đừng để thất tình lôi cuốn thì dầu không trấn an, cũng có thể tránh được sự bất hòa, vì tôn chỉ của Đạo chủ trương hòa ái, nếu đi ngoài chủ trương ấy là lạc Đạo vậy.
Anh chị em chúng ta có bổn phận phải thành tâm cầu nguyên Ơn Trên ban phước lành cho toàn Đạo và toàn chúng sanh để tránh những điều chẳng may và khẩn cầu riêng ĐỨC HỘ PHÁP ban ân điển vào Thánh Tượng của Ngài để chế ngự Thất Đầu Xà tức là Thất Tình, làm sao cho Đạo được êm ấm điều hoà, mới mong ĐỨC LÝ NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM ân xá cho tất cả, rồi mới mong đến việc cầu phong cầu thăng cho những Chức Sắc đầy đủ công nghiệp.
Chúng ta cũng phải cầu nguyện cùng ĐỨC CHÍ TÔN và ĐỨC PHẬT MẪU ban ơn Lành cho nước nhà mau bình yên thạnh trị, đặng rước Liên Đài của ĐỨC NGÀI về TÒA THÁNH để trấn an vĩnh viễn nơi Ngôi ĐỨC NGÀI ngự.
HIẾN PHÁP
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
Huấn Từ của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài, bài 11 trang 11-13
Bản in ronéo 1970 do Phan Thanh Liêm và Huỳnh Văn Chợ thực hiện.◙ |
QUYỀN HÀNH
CHÁNH, PHÓ TRỊ SỰ và THÔNG SỰ
Chức Việc Bàn Trị Sự có 3 phẩm yếu trọng là:
THÔNG SỰ, PHÓ TRỊ SỰ, CHÁNH TRỊ SỰ
1. THÔNG SỰ:
Là người cầm Luật Pháp, nên trong Pháp Chánh Truyền gọi là HỘ PHÁP Em, nghĩa là đồng quyền đồng thể, không hơn không kém, nhưng HỘ PHÁP cầm quyền toàn Ðạo khắp Thế Giới, còn Thông Sự chỉ trong địa phận một Ấp mà thôi, vì thế mới gọi là HỘ PHÁP Em.
2. PHÓ TRỊ SỰ:
Người cầm quyền Hành Chánh tức là Chánh Trị Ðạo, ở Pháp Chánh Truyền gọi là GIÁO TÔNG Em, hễ quyền trên lớn lao bao nhiêu thì quyền dưới cũng thế, nhưng Phó Trị Sự chỉ cầm quyền một Ấp Ðạo. Hai vị Phó Trị Sự và Thông Sự đều đồng thể cùng nhau không ai lớn ai nhỏ, cũng như Giáo Tông và Hộ Pháp, song quyền hành riêng biệt, Phó Trị Sự có quyền về Hành Chánh Ðạo, còn Thông Sự có quyền về Luật Lệ.
Phó Trị Sự và Thông Sự có quyền ứng cử chức Chánh Trị Sự.
3. CHÁNH TRỊ SỰ:
Người cầm quyền Luật Pháp và Hành Chánh Ðạo. Tại sao người cầm hết 2 quyền? Bởi vì Chánh Trị Sự là ÐẦU SƯ Em, nên phải kiêm cả 2 quyền và làm đầu trong một Hương Ðạo, trong Luật Pháp cấm người không cho đi ngoài ranh giới Chánh Trị Sự khác.
... ... .... |
Trích từ HẠNH ÐƯỜNG Tài Liệu Huấn Luyện Chức Việc Bàn Trị Sự Nam Nữ (Khóa Canh Tuất 1970).◙ |
|
|

 |
của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài |
|
LỄ KHÁNH THÀNH THÁNH THẤT CẦN GIUỘC
Ngày 21 tháng 2 năm Nhâm Tý (dl. 04-04-1972)
Kính thưa
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
ồi ức lại hơn 45 năm về trước, lúc Đạo mới phôi thai, cố tri phủ Nguyễn Ngọc Tương lúc bấy giờ làm quận trưởng quận Cần Giuộc là người có trọng trách truyền Đạo nơi đây. Ông Phạm Tấn Đãi, ông Trương Thế Ngộ và tôi được Đức Chí Tôn thâu làm môn đệ để hiệp cùng ông Nguyễn Ngọc, phổ thông chơn Đạo. Kế đến ông Ca Minh Chương, cựu giáo chức cũng được đứng vào hàng ngủ chúng tôi. Chính nơi đây, Đạo được khai mở trước nhứt và thâu nhận một số tín đồ đông nhứt. Chúng tôi là người trong giáo giới, ban ngày thì đi dạy học, ban đêm mới rảnh việc, cùng đi với ông Nguyễn Ngọc, khai đàn, thượng tượng, thâu nhận tín đồ. Suốt một năm trường, đêm nào cũng như đêm nấy, chẳng quản gió sương, bùn lầy cũng lội, gai gốc cũng qua, chúng tôi từ xã ấp nầy, sang xã ấp kia, một niềm tin
tưởng mảnh liệt, nghe tiếng gọi Thiêng-Liêng, khuyên nhủ đồng bào theo đường chánh giáo, mở rộng Đạo Trời.
Âu cũng là cơ duyên hiếm có giúp chúng tôi lập được công quả và sớm lập vị mình. Ngày qua tháng lại, Đạo dần dần mở rộng như vết dầu loan, từ quận Cần Giuộc đến Rạch Kiến, Rạch Đào, Rạch Núi, Gò Đen, Cần Đước trong tỉnh Chợ Lớn rồi tràng qua tỉnh Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre.
Lẽ cố nhiên, chánh quyền không muốn Đạo được bành trướng mau chóng với một số tín đồ quá đông, bèn đặt kế hoạch bài trừ. Một mặt, phân tán mấy người có nhiệm vụ trọng yếu trong Đạo, một mặt khủng bố tín đồ, làm khó dễ trăm bề, hâm he, dọa nạt đến điều. Chúng tôi vốn là công chức, cùng chung một số phần với ông quận trưởng Nguyễn Ngọc, bị đổi đi xa một người một nơi, cách trở gia đình. Âu cũng là cái may cho Đạo, hột giống Đạo được đem rải trên đất mới. Thế là Đạo được mở rộng châu vi hoạt động. Thiệt là "tình cờ chẳng hẹn mà nên".
Rồi bắt đầu từ đó, Đạo càng ngày càng tiến mãi, mặc dầu gặp nhiều khó khăn trở ngại cũng vượt qua khỏi, là do tinh thần nhẫn nại và lòng hy sinh vô bờ bến của phần nhiều chư Đạo-Hữu.
Trải bao nhiêu năm biến chuyễn thăng trầm, Đạo được tô điểm, mang sắc thái ngày hôm nay, ấy cũng nhờ các vị tiền bối đã dày công xây dựng nghiệp Đạo.
Nói đến tiền bối, ở đây chúng tôi không khỏi bồi hồi nhắc đến Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, nơi chôn nhau cắt rúng của Đức Ngài cách đây cũng không xa. Đức Ngài buổi sanh tiền, sau khi được Chí Tôn nhận làm môn đệ, một lòng tin tưởng nơi Đấng Đại Từ Phụ, tận tụy hành đạo, đi khắp đó đây, gieo hột giống lành, chịu trăm đắng ngàn cay, nhiều đều hổ nhục, mang tiếng thị phi người đời mai mỉa. Chúng tôi còn nhớ hình bóng Đức Ngài, mặc dầu tuổi cao, cũng có lúc cùng chúng tôi, cùng lặn lội bùn lầy, cùng vày đạp chông gai, để đến tận một nơi xa trong làng mạc, thiết lễ lập đàn cho thiện nam tín nữ cầu Đạo. Thiệt là một bậc Đại đức, có công to trong nền Đạo.
Còn hai vị nữa, đối với chúng tôi trước là bạn thâm giao, sau là người đồng Đạo. Cố quận trưởng Nguyễn Ngọc Tương, thọ Thiên ân Quyền Thượng Đầu Sư là một trong những người rường cột đạo lúc ban sơ. Thứ đến cố giáo viên Ca Minh Chương, tức là Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài, là người có công buổi đầu trong Đạo.
Nay, gặp dịp may, chúng tôi trở về cảnh cũ, chạnh nhớ đến người xưa, tình đồng Đạo, nghĩa kim bằng, vắng bóng cố nhân, lòng nào mà chẳng não lòng.
Thưa quý vị,
Thì giờ có hạn, câu chuyện tôi nói cũng hơi dài dòng, xín quí vị thứ lỗi cho.
Thưa quí vị Chức Sắc Chức Việc và quí tín hữu nam nữ,
Chí Tôn có nói: "Đạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh". Cái hại đây không phải cái hại về sinh mạng và tài sản, như chết chóc về bom đạn, đói lạnh, nước lụt, lửa cháy, cửa nát nhà tan, ruộng vườn tiêu sạch. Cái hại đây là cái hại về tinh thần bị áp đảo, văn hóa bị đầu độc. Đời hiện tại văn minh tiến bộ, con người có đủ mánh khóe gian lận, xảo trá, lừa dối, mưu lợi cho mình.
Thiếu chi mồi cám dỗ đưa con người vào đường trụy lạc. Sách báo, tiểu thuyết khiêu dâm, hình ảnh lố lăng, phim ciné tồi phong bại tục, đó là ba món thuốc độc làm cho người say mê chìm đắm trong vật dục, đi xa lần cái tánh bản nhiên, mất cả lương tri, không còn biết đâu là lẻ phải. Lại còn những cảnh ê chề nhục nhả phô bày giữa thanh thiên bạch nhựt làm tối mắt khách qua đường. Thêm những động lực thúc đẩy bắt buộc mình phải làm những gì ngoài ý muốn của mình. Đó là cái hại lớn lao làm cho nhẹ phẩm giá con người.
Nước ta là nước 4.000 năm văn hiến có kỷ cương, có phong tục tốt, có những bậc tài danh, có những trang hào kiệt. Sở dĩ nước Việt Nam tồn tại, dân Việt Nam tồn tại cho đến ngày nay là nhờ cái tinh thần bất khuất của những anh hùng liệt sĩ và nhờ phong hóa nước nhà bất di bất dịch. Quí vị cố gắng dạy dỗ đàn em cái hay cái đẹp của ông cha ta từ ngàn xưa để lại cho con cháu là luân lý trong gia đình và ngoài xã hội. Luân lý ấy dạy người có tư cách, biết giữ bổn phận làm người. Quí vị cũng nên chỉ cho chúng đề phòng những cạm bẩy mà tuổi thanh xuân thường hay vấp phải, răn chúng đừng chạy theo cái nếp sống tân thời, đừng bắt chước cái lối ăn chơi xa hoa của khách ngoại bang gieo truyền, không thích hợp với phong tục nước nhà. Đó là những điều cần yếu, quí vị có bổn
phận dìu dắt đàn em xa lánh.
Để chấm dứt, tôi thành tâm cầu nguyện quốc thới dân an, thiên hạ thăng bình, xin Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu ban ơn lành cho toàn Đạo Hữu nam nữ.
Nay kính,
HIẾN ĐẠO
Trích từ TIẾNG GỌI của Ngài Hiến Đạo Hiệp Thiên Đài, trang trang 47-50.
Bản in ronéo 1973 do Chức Sắc và Nhân Viên văn phòng Hiến Đạo thực hiện.◙ |
|

 |
Phổ Cáo Chúng Sanh - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ - 1926 |
|
PHỔ CÁO CHÚNG SANH |
|
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ |
|
Saigon, le 13 Octobre 1926,
Mồng 7, tháng 9, năm Bính Dần. |
huở hổn độn sơ khai, nhứt khí Hư Vô sanh duy có một Đấng Tạo Hóa, người phương Đông gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người Âu Tây gọi là Dieu, "Đức Chúa Trời" người Annam gọi là Ông Trời, là Đấng dựng nên Trời Đất muôn vật.
Có Thánh Ngôn, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ ngày 13 tháng 6 năm Bính Dần rằng:
"……………… Bậc chơn tu, tỷ như hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, trổ bông rồi sanh trái, mà biến biến sanh sanh càng thêm tăng số, vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến hóa hằng muôn, thêm số tăng lên hoài. Ấy là Đạo.
Bởi vậy một chơn thần mà sanh hóa chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả Nhơn loại trong Càn khôn Thế giái, nên chi các con là Thầy, Thầy là các con.
Như kẻ bên Phật Giáo hay tặng Nhiên Đăng là Chưởng Giáo; Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Đế.
Người gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân; Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần, đời nhà Thương.
Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ; Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ Giáo, thì Lão Tử cũng sanh ra đời Châu.
Người gọi Jésus là Thánh Đạo Chưởng Giáo, thì Jésus cũng sanh nhầm đời nhà Châu.
Thầy hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy? Ấy là Đạo, các con nên biết.
Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giái nầy, mà nếu không có Hư Vô chi khí, thì không có Thầy."
Chư Thánh, Thần, Tiên, Phật, mỗi khi giáng cơ, đều xưng là Đạo Hữu với các chư môn đệ nam phái nữ phái của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế; còn chính mình Ngài, lại xưng là Thầy của chúng sanh và hằng dạy rằng: Sự khiêm từ, nhịn nhục, hạ mình là hạnh yêu dấu của Ngài. Khi chư Thiện Nam Tín Nữ vừa nghe trong môn đệ gọi Ngọc Hoàng Thượng Đế là Thầy thì ái ngại đều phạm thượng, song đã có Thánh Ngôn chính mình Ngài dạy vậy, xin hãy an lòng.
Có hai vị đạo hữu: Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị Lão Thành, pháp danh là Đạo Quang nơi chùa Minh Đường (Hạnh Thông Tây). Nhằm ngày 21 tháng 8 năm Bính Dần, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn dịp Ngài có để lời rằng:
"Tương, Kinh, con phải lạy Đạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi anh mà thôi, còn thầy duy có một Thầy."
Thánh Ngôn ngày mồng 5 tháng 9 năm Bính Dần có dạy rằng:
"Ngọc Hoàng Thượng Đế, viết Cao Đài Tiên Ông Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo Nam Phương.
Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thể nào; phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên và Phật. Đáng lẽ, thế thường phải để mình vào phẩm vị tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thể nào, vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ. Hạnh khiêm là hạnh của mỗi đứa con phải noi gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng ……… ………………... "
Thánh Ngôn dạy tại Vĩnh Nguyên Tự, chùa Minh Đường, Cần Giuộc.
"Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã.
Thích Ca Mâu Ni Phật thị Ngã.
Thái Thượng Ngươn Thỉ thị Ngã.
Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã.
Kim viết Cao Đài Bồ Tát Ma Ha Tát."
Thánh Ngôn ngày 25 tháng hai Langsa năm 1926.
"Trọng Ni (Khổng Phu Tử) là Văn Xương Tiên hạ trần đặng thừa mạng Thầy làm Chưởng Giáo Nhơn Đạo; lo xong phận sự thì Thầy đến độ hồi cựu vị."
Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc Hoàng Thượng Đế đều có để lời tiên tri rằng:
"Ngày kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong Vạn quốc mà đặng làm chủ nền Chơn Đạo Ta."
Trong sám truyền và Phật Tông Nguyên Lý đều có ghi lời tiên tri ấy.
Chúng ta nên nghĩ tiếc cho Phật Đạo và Tiên Đạo đã khai từ thuở mới tạo Thiên lập Địa, nay càng ngày càng xem tựa hồ như nền Chơn Đạo đã biến dời, lần lần xa nguồn Chánh Giáo. Ngoái lại coi Thánh Đạo gọi Gia Tô mới lập trong hai ngàn năm nay, mà Thánh Quyền cao thượng là dường nào.
Song mọi việc chi cũng hữu chung hữu thỉ. Có tạo thế tức là có tận thế. Cái tận, tức là cuối cùng, mà hễ cuối cùng chẳng dứt, thì phải qui nguyên lại trước, nên gọi là Tuần hườn.
Ngày nay là buổi tuần hườn Đại Đạo, Thiên Địa hoằng khai, Ngọc Hoàng Thượng Đế tuy chằng giáng sanh như mấy kỳ trước, song giáng thế bằng huyền diệu Tiên bút, khai Đạo tại Nam Phương hầu chuyển Phật Giáo lại cho hoàn toàn.
Có Thánh Ngôn ngày mười ba tháng ba rằng:
"Vốn từ trước, Thầy lập ra Ngũ chi Đại Đạo là:
Nhơn Đạo,
Thần Đạo,
Thánh Đạo,
Tiên Đạo,
Phật Đạo,
Tùy theo phong hóa của thân nhân loại mà gầy Chánh Giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành Đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt.
Lại nữa, trước Thầy lại giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh Giáo làm ra cuộc phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải bị sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy mà độ rỗi các con, chẳng chịu giao Thánh Giáo cho tay phàm nữa.
………………… Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại …………………."
Tuy vân mỗi lần giáng thế truyền Đạo thì đổi Thánh Danh khác nhau, chớ kỳ trung cũng một Chơn linh Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Còn nay giáng thế bằng huyền diệu đặng chuyển Phật Giáo, chuyển Phật Pháp, chuyển Phật Tăng thì lại lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (3e Amnistie générale), (Đại ân xá lần thứ ba) thì Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, giáo đạo Nam Phương.
Thánh Ngôn ngày mồng 7 tháng 7 năm Bính Dần.
"Vốn từ ngày Đại Đạo bế lại, chánh quyền đều vào một tay Chúa Quỉ. Khi Ngọc Hư Cung và Lôi Âm Tự lập pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Chúa Quỉ biết cơ mầu nhiệm ấy, và hiểu rõ rằng tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến, thì nó đã hiểu rõ rằng: Bề nào Thầy cũng phải chiếu y Thánh ý Tam Giáo qui nhứt, mà dùng danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, nên đã dùng Cao Đài trước Thầy mà lập Tả Đạo Bàng Môn.
Thầy hỏi các con, vậy chớ Tà Quái nhận tên ấy là chủ ý gì?
………………. Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy, để cho các con nghi ngờ mà lánh xa Chánh Giáo, như Đàn Cái Khế vậy, nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy, tiện dụng làm một vị Tiên Ông mà thôi.
Vậy các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia, đừng vội tin mà lầm mưu Tà Mị."
Nội trong Thánh danh "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" thì chúng ta đủ hiểu rõ Thánh Ý gồm Tam giáo (Nho-Thích-Đạo) và Ngũ chi Đại Đạo cũng qui nguyên phục nhứt.
Cao Đài: Nho gọi là Đấng Chí Tôn,
Tiên Ông: Là về Tiên Đạo
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: Là về Thích Giáo.
Có bài thơ giáng cơ tại Biên Hòa rằng:
Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền Đạo chia ra nhánh nhóc ba,
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật Đạo vốn như nhà.
Ngài đã dạy rõ rằng Tam Kỳ Phổ Độ tuy khai năm Dần (nhơn sanh ư Dần), chớ kỳ trung Thiên Cơ tiền định đã lâu rồi.
Thánh Ngôn rằng:
"Vốn từ trước, trong Thiên Thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh Giáo phải có:
Nhứt Phật
Tam Tiên,
Tam thập lục Thánh,
Thất thập nhị Hiền,
Tam thiên Đồ Đệ.
Chưởng quản thâu Tam Giáo hiệp nhứt.
Nơi Bạch Ngọc Kinh, hơn sáu chục năm trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời. Thầy coi lại bọn ấy lại làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi các con biết chăng?
Bị hàng phẩm nhơn tước phải phù hợp với hàng phẩm Thiên tước. Đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con phải chịu số phận bần hàn, mà bởi không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy. Thầy nói thiệt cho các con biết: Dầu một vị Đại La Thiên Đế xuống phàm nầy mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng."
Ngài hằng dạy rằng: Đạo phổ thông trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Vậy thì trong kỳ Phổ Độ nầy là lần thứ ba, lại là lần chót, xin chư Hòa Thượng, chư Lão Thành, chư Sơn cùng Chức Sắc cả Tam giáo, và chư Thiện nam Tín nữ rán hiệp sức, cọng trí vùa giúp chung lo chấn hưng Chơn Đạo cho hoàn toàn hầu cứu vớt chúng sanh thoát khỏi trầm luân khổ hải.
Có Thánh Ngôn giáng cơ ngày 27 tháng 6 rằng:
"Thầy hằng nói cùng các con rằng: Thầy đến độ rỗi các con là đến lập tại thế nầy một trường thi công quả. Các con muốn đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại trường nầy mà đoạt thủ địa vị mình, chớ chẳng đi nơi nào khác mà đặng đắc đạo bao giờ. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc đạo, phải đoái lại bá, thiên, vạn, ức nhơn sanh còn phải bị trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.
Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm, mà chính mình Thầy đã đến nói, các con cũng nên tin nơi Thầy, mà cho rằng lời dạy Thầy là chơn thật. Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác, mới thấy cơ mầu nhiệm đặng, thì chừng ấy đã muộn rồi."
Chúng ta lưu ý rằng Ngũ chi: Minh Đường, Minh Sư, Minh Nghĩa, Minh Lý, Minh Thệ cũng đều do nơi Phật Pháp mà ra, chớ nên lầm tưởng vì chia phái mà riêng Đạo, hễ cùng nhau một Đạo, tức là con một cha, phải thương yêu nhau, vùa giúp nhau, tình đồng cốt nhục vậy.
Từ buổi bế Đạo, tu nhiều thành ít, gẫm lại coi, từ trước nơi cõi Á Đông nầy đã đặng bao nhiêu Tiên Phật; chúng ta duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi.
Thánh Ngôn Ngọc Đế giáng cơ tại chùa Minh Đường, Vĩnh nguyên Tự, ngày 14 tháng bảy rằng:
"Đời mạt kiếp nầy dữ nhiều lành ít, nếu Thầy không chuyển pháp lại, thì chưa một ai tu đặng trọn đạo."
Ngài có giáng cơ tại chùa Minh Đường tại Hạnh Thông Tây ngày mồng 2 tháng 9, cho bài tứ tuyệt nầy.
Hượt địa bất tri Thánh chí tân,
Minh thiên nhựt khí tản phong trần.
Huyền vi thế sự vô nhơn thức,
Hiệp khí bất năng hiệp diệu thần.
Theo tứ bài thi trên đây thì xét đương kim ít ai quen thuộc đường đi nước bước mà gấm ghé chơn vào nguồn Tiên ngọn Phật. Duy thành đạo cùng chẳng thành đều do nơi Thiên ý công bình chánh trực, đại từ đại bi của Ngọc Đế ban ơn cho chúng ta, tùy theo công quả âm chất và công phu của chúng ta khổ hạnh hành đạo.
Thánh Ngôn hằng dạy rằng người đời muốn đặng giàu có thì phải làm ra của, ấy là về phần phàm xác thịt; còn Thánh, Thần, Tiên, Phật muốn đắc đạo, phải làm công quả.
Nếu lầm tưởng rằng bấy nhiêu đạo lý trong cổ pháp cựu luật thế tình mà đủ chiếm máy Thiên cơ huyền vi mầu nhiệm của Đấng Tạo Hóa, và đặng phản nguyên ư Nhứt khí Hư Vô, hay là tưởng rằng người thông kinh thuộc sám, hằng bữa tụng cầu, lâu ngày chầy tháng mà thành Tiên hóa Phật, thì từ cổ cập kim quê hương chúng ta, Tiên Phật Annam biết kể sao cho xiết.
Vậy thì đâu đến đỗi Thượng Đế phải giáng trần mà chuyển Pháp và e khi cũng khỏi lập Tam Kỳ Phổ Độ mà cứu vớt nhơn sanh.
Có Thánh Ngôn Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài giáng cơ tại Hội Trường Sanh (Cần Giuộc), ngày 19 tháng 4 năm Bính Dần, dạy chư chúng sanh rằng:
"Từ trước Ta giáng sanh lập Phật Giáo gần sáu ngàn năm, thì Phật Đạo chánh truyền gần thay đổi. Ta hằng nghe chúng sanh nói Phật giã vô ngôn, nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo đạo chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn. Dường nầy từ đây chư chúng sanh chẳng tu, bị đọa A tỳ, thì hết lời nói rằng Phật Tông vô giáo mà chối tội nữa.
Ta nói thiệt cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Độ nầy mà không tu, thì không còn trông mong siêu rỗi."
Thánh Ngôn Thích Ca Như Lai kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát, giáng tại Hội Phước Tự, ngày 26 tháng 4 năm Bính Dần rằng:
"Chư sơn nghe dạy:
Vốn từ Lục Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công, mà thành thì bất thành. Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng phép luật buộc mối Đạo Thiền.
Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra, cho nên cam để vậy, làm cho Phật Tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam Kỳ Phổ Độ, Thiên Địa hoằng khai, nơi Tây Phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại Tăng Đồ không kiếm chơn lý mà hiểu. Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo... Ôi! Thương thay, công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau lòng.
Ta đến chẳng phải cứu một mình Chư Tăng mà thôi, vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu vớt.
Chư Tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ Độ nầy là lần chót, phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trong giả luật ………………
……………… Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây Ta cho chư Tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu thất kỳ truyền. Chư Tăng từ đây chẳng đặng còn nói Phật giả vô ngôn nữa."
Trần thế bị những sự vinh hoa phú quí hằng làm chìm đắm biết bao nhiêu người có tiền căn cựu phẩm, vì ham luyến hồng trần mà lạc bước vào đường tội lỗi. Vậy thì nay Trống Lôi Âm đã giục, Chung Bạch Ngọc đã rung, xin chư Thiện Nam Tín Nữ hồi tâm tỉnh ngộ, lo tu tâm dưỡng tánh mà chen bước vào đường Đạo Đức cho kip thời Tam Kỳ Phổ Độ nầy. Gẫm xét cho cùng tột rồi, chẳng vinh diệu nào cho bằng chịu khổ hạnh nâu sòng, hầu chất công quả, hầu siêu rỗi cho tiền bối nơi chin suối, chưởng đức lưu truyền lại cháu con, rán công phổ độ, cứu vớt nhơn sanh khỏi nơi trầm luân khổ hải, và chính mình đặng cải tà qui chánh, thoát kiếp luân hồi, ấy là sở hành cao thượng vô cùng.
Có bài thi giáng cơ rằng:
Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo ấy cây che mát mẽ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hiển,
Đôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có thần nuôi nấng thần càng mạnh,
Luyện khí thông thương khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhầm phương.
Trong nước có nhiều Đạo, mà chẳng một Đạo chi đáng chơn chánh đặng làm gương soi cho quốc dân, cho nên nước phải thấp, dân phải hèn, thấp hèn cũng vì dân một nước như con một nhà, mà xem tựa hồ như phân chia ra nhiều phe nhiều phái, kẻ đạo nầy, người đạo khác, rồi kích bác lẫn nhau.
Trời không hai mặt, đất chẳng hai vua.
Đất có hai vua là đất giặc, Trời già hai mặt thế ra tro.
Phải trông mong ngày sanh linh đạo đức, an cư lạc nghiệp, cọng hưởng thái bình; trong nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm của rơi.
Nay Cao Đài Thượng Đế hạ trần dùng huyền diệu Tiên bút, lập nền Chơn Đạo tại Nam phương, nhập Tam Giáo lại làm một, chủ ý qui tụ chúng sanh lại một nhà. Ngài làm cha chưởng quản, sẽ hội Tam Giáo nơi Thánh Thất là nhà chung (tại Tây Ninh, ngày rằm tháng mười tới đây) xem xét kiểm dượt kinh điển mà tạo thành Tân Luật; sự thờ phượng; tế tự chế sửa theo Tam Kỳ Phổ Độ cũng nơi ấy mà xuất hiện; nhìn Quốc Âm, tiếng Annam làm Chánh Tự mà lập Đạo. Từ đây nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo của Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài lập ra, gọi là Quốc Đạo.
Có bài thi giáng cơ rằng:
Hảo Nam bang, Hảo Nam bang,
Tiểu Quốc tảo khai hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân, tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc Cao ban.
Có Thánh Ngôn rằng:
"Chưa phải hồi các con rõ tại sao phải vẽ Thánh Tượng "con mắt" mà thờ Thầy, song Thầy cắt nghĩa cho hiểu chút đỉnh.
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị "Thần",
Thần thị Thiên,
Thiên giả Ngã giả.
Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập "Tam Kỳ Phổ Độ" nầy, duy Thầy cho "Thần" hiệp "Tinh-Khí", đặng hiệp đủ "Tam Bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh."
Sự thờ phượng chế sửa
theo "Tam Kỳ Phổ Độ"
nơi Thánh Thất Tây Ninh. |
|
Thánh Ngôn ngày 12 tháng 8 năm Bính Dần dạy rằng:
"Các con lo một trái Càn Khôn, hình tròn quay như trái đất, sơn màu xanh da trời; bề kính tâm: ba thước ba tấc. Lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy. Cung Bắc Đẩu và Tinh Tú phải vẽ lên trái Càn Khôn ấy. Thầy kể Tam Thập Lục Thiên và Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh Tú, còn lại Thất Thập Nhị Địa và Tam Thiên Thế Giái thì đều là Tinh Tú, tính lại là ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao, con biểu vẽ lên đó cho đủ, con dở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước.
Tại ngôi Bắc Đẩu con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ, và sao Bắc Đẩu cho rõ ràng; trên vì sao Bắc Đẩu vẽ con mắt Thầy.
Đáng lẻ trái ấy phải bằng chai, đúc trong một ngọn đèn cho nó thường sáng, ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giái đó; nhưng mà làm chẳng kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp đại hội.
Khi đem trái Càn Khôn ấy về, con làm một cái cốt xây, để trái ấy lên Đại Điện, nhớ day con mắt ra ngoài; rồi con lại lên tượng Phật Thích Ca, Lão Tử và Khổng Tử mà để dựa dưới; kế ba vị ấy thì là Quan Thế Âm, Thái Bạch, Quan Thánh Đế; kế nữa, ngay dưới Lý Thái Bạch thì là Jésus de Nazareth; kế Jésus thì là Khương Thượng Tử Nha; còn chư Phật, chư Tiên, Thánh, Thần đã lên cốt, thì để dài theo dưới."
Ấy là sắp đặt sự thờ phượng tại Thánh Thất Tây Ninh, còn các nơi Tiểu Đàn, lập tran thờ tại nhà riêng thì như vầy:
Trên thì Thánh Tượng "Con Mắt" Thầy, hàng dưới thì lập đủ ba Trấn chứng Đàn, trong Tam Kỳ Phổ Độ và qui Tam Giáo nầy:
Phật thì có Quan Âm (bên mặt, ở trong ngó ra),
Tiên, Lý Thái Bạch (ở giữa, dưới tượng Thầy),
Nho, Quan Thánh Đế Quân (bên trái).
"Mồng 2 tháng 7 Bính Dần" |
Lý Thái Bạch giáng cơ
Thái Thượng vô ngôn hữu Đạo thành,
Bạch vân hữu nhãn kiến nhơn sanh.
Kim quang đắc kiếp tu tâm thiện,
Tinh đẩu nan tri Ngã độ thành. |
Quan Âm Bồ Tát
Quan minh Nam hải trấn thiền môn,
Âm cảnh năng du độ dẫn hồn.
Bồ đoàn mạc hám liên huê thất,
Tát thế tâm ưu khỏi Đạo Tông. |
Quan Thánh Đế Quân
Quan thành tái kiếp Hớn triều phong,
Thánh đức mạc vong hám thế trần.
Đế thất nhứt tâm trung khí dỏng,
Thanh y xích diện hảo vinh phong. |
Tịch Đạo thi
Thanh Đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như Địa huyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên. |
Ngày 7 Septembre 1926, nhằm mồng một tháng chín, năm Bính Dần, có Môn đệ Thiên Phong của Đức Cao Đài, là Cựu Hội đồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt vưng lịnh Thánh Ngôn đến Khai Đạo nơi Chánh Phủ. Trong tờ Khai Đạo ấy có ký tên 247 chư Môn đệ, phần nhiều đều là Chức sắc Viên Quan, và có Nữ Phái nhiều người danh dự.
Quan Nguyên Soái Nam Kỳ hoan nghinh và khen rằng vì chữ thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng.
Chúng tôi xin phô đôi lời thành thật thô sơ, chư Hòa Thượng, chư Lão Thành, chư Sơn, chư Chức Sắc trong Tam Giáo và chư Thiện Nam, Tín Nữ xin lưu ý.
Chầy kíp đây chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà luận Đạo kỹ thêm nữa.
TÂN TẢ BẠCH NGỌC KINH
GIÁNG CƠ MỒNG 1 TẾT, NĂM BÍNH DẦN
Một tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào. [*1]
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm pháp vẫn cao. [*1]
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao. |
Ghi chú: [*1]
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (Ấn bản năm Nhâm Tý - 1972).
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào.
... ... ...
LiệtThánh kinh tâm pháp vẫn cao.
Bản gốc.
Thiên trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.
... ... ...
Liệt Thánh kinh tâm pháp lực cao. |
Ân bàn theo bản in
Phổ-Cáo Chúng-Sanh / Ðại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nhà in Imprimerie De Lunion SAIGON - 15 Octobre 1926".
Nguồn tài liệu: Thư viện Pháp (Bibliothèque nationale de France)
https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k42395152/
HIỆU ĐÍNH CHỮ QUỐC NGỮ
1. Theo chánh tả hiện hành.
2. Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
3. Việt Nam Tự Điển – Hội Khai Trí Tiến Đức -1931.◙ |
|

ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT
(Lê Văn Trung) (1876-1934)
gài Lê Văn Trung sanh năm Bính Tý (1876) tại làng Phước Lâm tổng Phước Điền Trung (Chợ Lớn).
Thuở Ngài được 3 tuổi thì thân phụ là ông Lê Văn Thanh (1845-1878) đau bịnh từ trần, thân mẫu là bà Văn Thị Xuân (1849- 1912).
Ngài thi vào học tại trường Lycée Chasseloup Laubat SàiGòn, và tốt nghiệp trường nầy vào năm 1894, lúc đó Ngài được 19 tuổi. (Tuổi tây là 18 tuổi).
Cũng trong năm nầy, ngày 14-7-1894, Ngài Lê Văn Trung được thâu nhận vào làm Thơ Ký tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ. Ngài làm việc Thơ Ký cho đến năm 1906, tổng cộng được 12 năm. Sau đó, Ngài xin thôi việc và được chấp thuận ngày 6-3-1906.
Ngài Lê Văn Trung ra ứng cử và được dân chúng bầu vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de Cochinchine), đại diện cho các tỉnh: Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Gò Công, Tây Ninh, được liên tiếp 2 khóa, tổng cộng 8 năm.
Năm 1911, Ngài Lê Văn Trung đề xuất một việc làm rất mới mẻ tại Sài Gòn, nơi đang chịu sự thống trị nặng nề của Pháp, là việc xây dựng một Nữ Học Đường để giáo dục con gái, thực hiện Nam Nữ bình quyền.
Ngài Lê Văn Trung đi vận động với bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, và một số trí thức ủng hộ, quyên góp tiền bạc, xây dựng được một ngôi trường Nữ đầu tiên tại Sài Gòn, gọi là Collège des Jeunes filles, về sau đặt tên là Trường Nữ Trung Học Gia Long. Hiện nay, trường nầy vẫn còn tấm bia kỷ niệm ghi tên hai vị sáng lập là bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và Hội Đồng Quản Hạt Lê Văn Trung.
Ngày 18-5-1912, Ngài Lê Văn Trung được Chánh phủ Pháp thưởng cho Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ Ngũ Đẳng (Chevalier de la Légion d'Honneur).
Ngày 10-12-1914, Ngài Lê Văn Trung được Pháp cử lên làm Nghị viên Hội Đồng Soái Phủ Đông Dương (Conseil du Gouvernement de l'Indochine), thường gọi là Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương.
Ba bốn tháng trước khi nhập Ðạo, Ông Lê Văn Trung đã gởi đơn đề ngày 6 Octobre 1925 cho Quan Thống Ðốc Nam Kỳ mà xin từ chức Nghị Viên Thượng Nghị Viện. [Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung / Diệp Văn Kỳ Novembre-1934].
- Ngày 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926), Đức Cao Đài Thượng Đế dạy quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc cơ đến nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn cho Đức Chí Tôn dạy việc.
- Đêm 12-3-Bính Dần (dl 23-4-1926), Đức Chí Tôn sắp đặt cuộc Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, ân phong cho Ngài là Thượng Đầu Sư, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
- Ngày 23-8-Bính Dần (dl 29-9-1926), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, vâng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, hiệp cùng chư Chức sắc Thiên phong và chư Đạo hữu, tổng cộng 247 người, họp tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ở đường Galiéni, nay là đường Trần Hưng Đạo, quận 1 Sài Gòn, để thảo ra TỜ KHAI ĐẠO, gởi lên Chánh phủ Pháp.
- Ngày 1-9-Bính Dần (dl 7-10-1926), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đích thân đem Tờ Khai Đạo đến gởi cho quan Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol, được ông vui vẻ tiếp nhận.
- Ngày 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926), ngày rằm Hạ nguơn năm Bính Dần, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt hiệp cùng Đức Hộ Pháp và chư Chức sắc Đại Thiên phong, vâng lịnh Đức Chí Tôn mượn chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh làm Thánh Thất tạm để tổ chức Đại lễ Khai Đạo Cao Đài, có đủ các quan chức các cấp của Chánh quyền Pháp thời đó và đại diện các tôn giáo khác đến dự.
- Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho quyền Giáo Tông hữu hình, theo Đạo Nghị Định thứ nhì.
Ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934), Đức Quyền Giáo Tông lâm bịnh và nhẹ nhàng thoát xác qui Thiên tại Giáo Tông Đường, lúc 3 giờ chiều, hưởng thọ 59 tuổi.
Nếu kể từ ngày Khai Đạo tại Thánh Thất Từ Lâm Tự Gò Kén 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926) cho đến ngày Đức Quyền Giáo Tông qui Thiên 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934) thì đúng 8 năm tròn. Nếu tính từ ngày Đức Chí Tôn thâu nhận Ngài làm môn đệ 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926), thì Đức Ngài hành đạo được 9 năm.
Đức Phạm Hộ Pháp lấy bài thi sau đây của Đức Quyền Giáo Tông làm bài thài hiến lễ Đức Ngài:
Càn khôn quen thú phước Linh Tiêu,
Thấy khổ trần gian nghịch Thánh điều.
Mượn xác phàm riêu cây Phất Chủ,
Nương cơ tạo xủ phướn Tiêu Diêu.
Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,
Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu.
Muôn dặm cửa Tiên chờ bước tục,
Cỡi lau trở gót ruột trăm chiều.
Trích lược từ CAO ĐÀI TỪ ĐIỂN Soạn giả: Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng bút hiệu ĐỨC NGUYÊN / vần Q / Quyền Giáo Tông.◙ |
|

Tiểu sử của Ông LÊ VĂN TRUNG
Diệp Văn Kỳ Novembre-1934.
ài ngày sau khi Ông Lê Văn Trung tạ thế, nhơn tôi có tỏ dấu thương tiếc với một người bạn thanh niên du học, người ấy nói liền:
- Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì mà anh thương tiếc?
- Vậy chớ gần một thế kỷ nay những người An Nam "sống lâu ra lão làng" như anh với tôi đã làm được cái quái chi?
Ðối với câu nói xấp nhập* như kia tất phải có câu trả lời tiêu cực như thế. Chớ xét ra, ở giữa thời kỳ "nước nhà nhiều nạn" nói khó, tư tưởng cũng còn khó thay, huống chi là việc làm, thì hễ ai đã làm được điều chi, dầu cho sự ích lợi của nó nhỏ nhen thế nào, mà mình đã có thể biểu dương được, thì cũng nên biểu dương.
Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì?
Ðiều đó chưa biết. Cái điều mà ai cũng nên biết là phải tìm coi cho rõ Ông Trung đã làm được cái chi chưa?
Ai là người đã nghĩ rằng Ông Lê Văn Trung chẳng hề làm được điều chi đáng cho chúng ta chú ý, thì hiện nay chắc họ cũng ăn năn, nhận sự lầm lỗi của họ.
Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì?
Ðiều đó chưa biết. Chúng tôi chỉ biết rằng từ hôm ông chết đến nay, ở Tòa Thánh Cao Ðài Tây Ninh, số người mỗi ngày đến chịu tang, lấy muôn mà kể. Già trẻ, bé lớn, đàn ông, đàn bà ở Lục Tỉnh, ở Nam Vang, ở Lèo, thảy đều thương tiếc, khóc than, chẳng khác nào con mất cha mẹ. Nếu như có thể lấy những "Chuôn" vải trắng bịt trên đầu để làm thước đặng đo sự nghiệp, công đức của một người quá vãng, thì ta có thể nói rằng sự nghiệp, công đức của Ông Lê Văn Trung là lớn nhất ở Nam Kỳ nầy vậy.
Trái lại, dầu cho có ai bảo rằng sự ngưỡng mộ ấy đều do ở điều mê tín tàm vơ mà sanh ra, thì họ cũng phải công nhận rằng đó là một cái tâm lý quần chúng cần phải nghiên cứu, là một "việc" xã hội cần phải điều tra.
Muốn nghiên cứu tâm lý ấy, muốn điều tra "việc" xã hội ấy, thì tôi tưởng chẳng chi hay hơn là xét cho rõ lai lịch của người đã đào tạo ra tâm lý ấy và "việc" xã hội ấy.
Ý nghĩa của vài tờ tiểu sử nầy là vậy đó.
Huống chi, "Nữ vị duyệt kỷ giả dung, Sĩ vị tri kỷ giả tử". Tôi tuy không phải là người trong Ðạo Cao Ðài, song từ ấy đến nay và nhứt là trong hai năm gần đây, Ông Giáo Tông Lê Văn Trung bao giờ cũng lấy tình của người bạn vong niên mà đãi tôi.
Tôi còn nhớ, cách chừng một năm nay, sau khi ông NGUYỄN PHAN LONG lấy tư cách Giáo Sư Cao Ðài lên Tòa Thánh Tây Ninh ngồi làm Chủ Tọa "Hội Vạn Linh" để buộc tội Ông Giáo Tông mà rồi cũng không có hiệu quả, Ông LÊ VĂN TRUNG kêu tôi mà nói: "Cái kết quả của «Hội Vạn Linh» nầy không phải là để rửa sạch những điều họ đã vu cáo cho tôi, mà chính là để cho «Ðạo» được thêm một Tín đồ trí thức NGUYỄN PHAN LONG."(1)
Lại một hôm, nhơn bàn về vấn đề Tôn giáo, tôi nói với Ông LÊ VĂN TRUNG:
- Tôi nhớ như tuồng một nhà Văn sĩ Ăng Lê kia đã nói: "Tôn giáo nầy mà khác với Tôn giáo kia cũng giống như những nhà đăng cao, tuy là khi mới trèo lên, thì người ở bên chơn núi nầy, kẻ ở chơn núi kia, chớ chừng đến trên đảnh cũng gặp nhau một chỗ".
Ông trả lời:
- Ðạo Cao Ðài chúng tôi cũng vậy. Song chỉ có một điều khác, là muốn sao từ khi đương ở dưới chơn núi, thì tất cả các nhà đăng cao đều đã biết nhau, yêu nhau.
Gần đây, sau khi Ông đi diện yết Quan Toàn Quyền Robin vừa ra, tôi hỏi:
- Quan Toàn Quyền có hỏi chi đến việc Ngài trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại cho Chánh phủ chăng?
- Có. Quan Toàn Quyền có khuyên tôi lấy lại. Song tôi đã bẩm với Ngài rằng: Trả hay không trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh là một việc nhỏ và dễ tính.
Cái người của ông, bình sanh, bất kỳ là đối với việc gì, cảnh ngộ nào, ông cũng ung dung, hòa nhã; nói chậm rãi, mới nghe qua như tuồng thờ ơ, mà xét kỹ lại, thì thâm trầm, ý vị.
Chỉ duy trong những lúc đêm tàn, canh vắng, bên ngọn đèn khuya, hay là dưới bóng trăng nuối, Ông mới đem ít nhiều tâm sự mà than thở với những người bạn thanh niên như chúng tôi đây.
Cái tâm sự mà ông đã đặt tên cho nó là "Nhơn Ðạo".
Cái "Nhơn Ðạo" ấy, ai là người trong Ðạo Cao Ðài sẽ kế chí Ông?
Về phận tôi, tôi chỉ biết lấy tình tri kỷ mà vẽ sơ lại con đường của ông đã trải qua, để họa may gần đây sẽ có kẻ nối theo đó mà đi cho đến mục đích của ông đã tự kỳ: Do Thiên Ðạo mà lo Nhơn Ðạo, lo Nhơn Ðạo cho xong để tròn phận sự đối với Thiên Ðạo.
***
Ông LÊ VĂN TRUNG, người hạt Chợ Lớn (Cholon), con ông LÊ VĂN THANH và bà VĂN THỊ XUÂN, sanh tại làng Phước Lâm, tổng Phước Ðiền Trung, trong năm 1875.(2)
Sanh ra được vài tháng, thì ông thân của Ngài thệ thế*.
Tuy là sớm phải gặp cảnh mồ côi cha, song cũng nhờ gốc thuần phong mỹ tục của nhà ruộng rẫy xứ nầy, và sự dạy dỗ có nghĩa phương của một bà từ mẫu, nên việc học vấn của Ông cũng tuần tự theo trình độ trí thức của phần đông lúc bấy giờ mà mỗi ngày mỗi được tăng tấn.
Qua năm 18 tuổi, nhằm ngày 14 Juillet 1893, thì Ông đã được bổ vào ngạch thơ ký Chánh phủ Nam Kỳ.
Chẳng bao lâu ông lại từ chức, ra tranh cử Hội Ðồng Quản Hạt quận thứ nhì (Gia Ðịnh - Chợ Lớn - Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Baria* Cap Saint-Jacques).
Ông thường hay nhắc lại việc nầy mà nói: "Cái ma lực buộc người hay có xa vọng về chánh trị nó mạnh lạ thường. Tranh cử lúc đó còn phải tốn tiền hơn bây giờ xấp trăm, xấp ngàn. Vậy mà tiền không, thế lực nỏ có, thì tranh cử cái gì, mà tôi cũng xin thôi việc quan đặng ra tranh cử?".
"Người ta là con vật chánh trị!". Văn sĩ xưa nào đã nói như vậy.
Ông đắc cử vào làm Nghị viên Quản Hạt lần thứ nhứt nhằm khoản năm 1906.
Thầy thơ ký mồ côi, nhà nghèo, thiếu trước hụt sau, mà nay đã nghiễm nhiên là một ông dân biểu, lại thêm nhằm lúc dân trí chưa mở mang, Hội Ðồng Quản Hạt chỉ còn là cái máy ghi chép "đít cua"* thì đáng lẽ Ông cũng theo thường, "ùy ùy*, dạ dạ" để xin "mày đai"*, huyện hàm, khẩn đất mà thủ lợi.
Thế mà không. Sau khi đắc cử, Hội Ðồng mới nhóm một kỳ đầu tiên, thì đã gặp ngay bản dự thảo thuộc về "Lục hạng điền" của ông Outrey, quyền Thống Ðốc Nam Kỳ, trình xin Hội Ðồng phải thảo luận và thừa nhận.
Ông và ông Diệp Văn Cương, Hội Ðồng Bến Tre, đứng ra cầm đầu cho tất cả 6 ông Quản Hạt Annam phản kháng lại bản dự thảo của Chánh phủ.
Song, số Nghị Viên Annam lúc bấy giờ chỉ bằng phân nửa số Nghị Viên Langsa, thì dầu cho có phản kháng kịch liệt thế nào, cứu cạnh rồi cũng chẳng có kết quả.
Tình thế chính trị như vậy mặc dầu, ông cùng các người đồng chí cũng chẳng chịu thua. Hội Ðồng Quản Hạt, với mười mấy lá thăm Langsa, vừa thừa nhận khoản thuế "Lục hạng điền" thì bên nầy, tất cả sáu ông Hội Ðồng Quản Hạt Annam đều gởi đơn từ chức.
Ðối với thái độ ấy, có lẽ ngày nay chúng ta chẳng lấy chi làm lạ. Song nếu như chúng ta thử tưởng tượng lại cái hoàn cảnh chánh trị cách 30 năm nay, thì dám làm như thế, dám phản kháng Chánh phủ một cách công nhiên như họ đã làm, thật là một việc đáng khen, và không phải là không có chi nguy hiểm cho những người xướng xuất.
Từ chức xong, tất cả sáu ông đều ra ứng cử lại và thảy đều được tái cử, trừ duy ông Hội Ðồng Hoài, bị ông Bùi Quang Chiêu a phụ với ông Outrey xúi người bà con là ông Bùi Thế Khâm ra phá nên thất cử.
Hội Ðồng Quản Hạt mà được trở nên một nghị trường có nhiều ít thanh thế và một đôi vẻ chánh trị có lẽ cũng là nhờ "vụ Lục hạng điền" làm nước bước đầu tiên vậy.
Trong bước đầu tiên ấy, ông Lê Văn Trung lại là một người hướng đạo rất khẳng khái.
Thế lực chánh trị của ông, từ đó về sau, mỗi ngày mỗi càng lớn thêm. Ðối với cử tri, lúc bây giờ tức là các Hương chức, thì ông là một người đã bảo thủ quyền lợi của nông dân, điền chủ, đối với Chánh phủ, thì ông là một người trong những người mà các nhà đương đạo khó khinh thường.
Nhờ thế lực ấy, nên trong năm 1911 ông mới hiệp sức với một vài nhà trí thức, quyền bính Sài Gòn, Chợ Lớn mà khởi xướng được một vài việc rất mới mẻ có quan hệ mật thiết, ảnh hưởng lớn lao ở giữa xã hội Việt Nam ngày nay.
Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường.
Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn ông, còn hãy phôi thai, cậu nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự thánh, tự thần, xách đi cùng Lục tỉnh đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh chàng du học đem về được một cái bằng cấp Tú tài, thì đã hô lớn lên một cách rất vinh diệu, tự đắc rằng mình quên hết tiếng Annam; đương giữa buổi mà khắp cả cha mẹ trong nước đều công nhận rằng cho con gái có nhiều ít học thức là một mối hại lớn cho gia đình, cho xã hội; đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng nữ học, xin lập trường Nữ học để dạy bên gái bằng như bên trai, có phải là một việc quá bạo gan chăng? Những người đề xướng có phải là những bực tiên kiến chăng?
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, như tuồng cũng cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ của Annam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp tiền của công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong nữ giới.
Vậy mà nếu ai chịu khó lật cuốn sổ lạc quyên năm nọ ra xem, thì sẽ thấy ở dưới mấy lời tuyên bố có tên của ông Lê Văn Trung là người khởi xướng đứng kế phương danh bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ Hữu.
Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới chế độ chẳng phải khinh thường mà đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên đây, thời tuy nó chưa phải là những sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế cũng đã có thể gọi rằng khỏi mang tiếng "ùy ùy, dạ dạ" là cái danh hiệu của phần đông trong mấy ông Hội Ðồng, từ xưa đến nay, ở xứ này.
Ðó là sự nghiệp.
Còn công danh, nếu lấy theo nghĩa hẹp của nó và theo thế tình, thì ông Lê Văn Trung, Hội Ðồng Quản Hạt, Nghị Viên Thượng Nghị Viện, thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, sanh tiền cũng đã từng có đủ công danh.
Nhưng, than ôi! Dầu cho những điều đó mà có thể gọi là công danh, sự nghiệp đi nữa, đối với người đã lấy lòng tín ngưỡng làm phương châm cho sự hành vi, lấy đức bác ái, phổ độ làm mục đích cho cái đời sống, thì công danh, sự nghiệp cũng chẳng nên nhắc lại làm chi.
Vả trước khi đem thân phàm tục để nhờ con "Mắt" huyền diệu của "Thầy" soi thấu, thì Ông Lê Văn Trung cũng đã lãnh đạm với cái công danh sự nghiệp ấy.
Ba bốn tháng trước khi nhập Ðạo, Ông Lê Văn Trung đã gởi đơn đề ngày 6 Octobre 1925 cho Quan Thống Ðốc Nam Kỳ mà xin từ chức Nghị Viên Thượng Nghị Viện.
"Mãi đến ngày mồng năm tháng Chạp năm Ất Sửu (28 Janvier 1926) ở Saigon, Ðức THƯỢNG ÐẾ giáng cơ dạy hai ông Cư và Tắc, đem cơ vô nhà Ông Trung (Chợlớn, Quai Testard) cho 'Ngài' dạy việc. Hai ông này lấy làm bợ ngợ, vì thuở nay chưa hề quen biết ông Trung ..."
Chuyện trên đây tôi do ở cuốn sách "Ðại Ðạo Căn Nguyên" của Ðạo Cao Ðài mà chép ra và chỉ để ghi lấy ngày nhập Ðạo cho tiện sự chia cái đời của ông ra làm hai đoạn.
Ðoạn trước, ở thế gian, từ ngày 14 Juillet 1893, Ông (được) bổ ra làm thơ ký, cho đến 6 Octobre 1925 là ngày ông từ chức Nghị Viên Thượng Nghị Viện.
Ðoạn sau, thuộc về đời hành đạo, đời tu niệm của Ông, từ 28 Janvier 1926 cho đến 19 Novembre 1934.
Bước đường ở ngoài thế gian trong khoản 32 năm được hanh thông chừng nào, thì 9 năm trong Ðạo lại càng mắc phải nhiều khổ hạnh chừng nấy.
Sau khi nhập Ðạo chưa đầy một năm, sau khi Ông với các Ðạo hữu đi thuyết đạo khắp cùng Lục Tỉnh và nội trong mấy tháng mà số người theo Ðạo Cao Ðài tính hơn một triệu, thì Ông cùng bà Lâm Hương Thanh, Chánh Phối Sư, với 247 người Ðạo hữu đứng vào một lá đơn trình với Chánh phủ xin phép khai Ðạo.
Lá đơn ấy đề ngày 29 Septembre 1926. Nó là tấm Giấy Khai Sanh của Ðạo vậy.
Lúc bấy giờ, Ðàn cầu cơ đã có khắp cả mọi nơi, Cầu Kho, Chợ Lớn, Tân Kim, Lộc Giang, Tân Ðịnh, Thủ Ðức, mỗi chỗ đều có người chủ trương riêng. Vì Ðạo Cao Ðài là do ở Cơ bút phát sanh; điều đó ai cũng biết.
Tuy nhiên, chí kinh dinh kiến tạo của Ông ở ngoài đời Ông vẫn đem nó theo để làm cho đạt một mục đích khác.
Vì Ông nóng lòng về sự lo cho nền Ðạo được thống nhứt, nên nội trong năm đó, ngày 19 Novembre, đêm 14 rạng mặt Rằm tháng Mười năm Bính Dần, thì làm lễ Khánh Thành Thánh Thất ở Từ Lâm Tự và lễ chánh thức Khai Ðạo.
Tính từng ngày một, từ 19 Novembre 1926, ngày Khai Ðạo cho đến 19 Novembre 1934, ngày ông mất, cộng là 8 năm, không thiếu, không dư một bữa.
Trong điều đó có chi huyền diệu chăng?
Huyền diệu hay không, tôi tưởng ai là Tín đồ Cao Ðài, thời cũng phải lấy ngày đó làm một ngày kỷ niệm rất quí hóa, kỷ niệm lễ chánh thức khai Ðạo, kỷ niệm húy nhựt của Ông Quyền Giáo Tông và kỷ niệm cho nhớ rằng hành đạo là một việc khó, cơ bút thường hay có những điều lưu tệ. Vì chánh ngay đêm đó, có hai Tín đồ nam và nữ tự xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, và Quan Âm Bồ Tát nhảy lên làm cho công chúng thất vọng.
Và cũng vì việc rắc rối ấy mà làm cho ai nấy đều ngã lòng, thối chí, thành thử nổi lên một cuộc công kích rất kịch liệt do những người hoặc vì thiên kiến, hoặc vì tư lợi mà sanh ra.
Có một điều lạ chẳng ai ngờ, là cái hiệu quả của cuộc công kích ấy chỉ làm cho số Tín đồ Cao Ðài mỗi ngày mỗi đông thêm.
Cách đó chẳng bao lâu, Thánh Thất Cao Ðài lại phải dời về nơi sở rừng 140 mẫu, tọa lạc tại làng Long Thành, Tây Ninh, cho đến bây giờ.
Trong khoảng thời gian từ ngày lập Ðạo cho đến lúc dời Thánh Thất về làng Long Thành, Ông Lê Văn Trung đã trải biết bao nhiêu công khó mới gầy dựng nên được cơ sở vững chặt ngày nay. Song Ông thường hay nói với tất cả mọi người: "Công khó ấy đều nhờ ở lòng tín ngưỡng thành kỉnh của anh em, chị em trong Ðạo. Công của tôi chẳng bao giờ lớn hơn công của một «Tiểu Giáo Nhi» nào".
Tuy nhiên, trong lúc vừa dời Tòa Thánh về làng Long Thành Tây Ninh, thì các Chức Sắc, các Giáo Hữu, các Tín đồ đều đã rõ thấu công lao của Ông đối với nền Ðạo, nên ai nấy đều vui mừng về việc Ông được tôn lên Quyền Giáo Tông nhằm ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930).
Vả lúc ấy, là lúc Ðạo đương trải qua thời kỳ toàn thạnh mà chủ quyền lại được thống nhứt về trong tay của một người nhiều kinh lịch, đủ nghị lực như ông Lê Văn Trung, thì ai cũng tưởng nền Ðạo từ đó về sau sẽ được vững chãi hơn.
Ai ngờ hai chữ "Giáo Tông" lại thành ra cái cớ để khiến cho những tay cầm quyền Ðạo như hai Ông Đốc Phủ Tương và Trang họ đã làm cho nảy sanh chẳng biết bao nhiêu việc chia lìa, oán khích. Chẳng những là ở trong Ðạo, thì họ đã mời hội "Vạn Linh" để buộc tội, viết tờ Châu Tri để thống mạ, mà ngoài đời, thì họ lại còn xúi giục Tín đồ lầm lạc đem những việc phi lý, vô bằng đến Tòa mà kiện và vu cáo với các nhà đương quyền (nhà đương đạo) rằng để cho Ông Lê Văn Trung cầm quyền Ðạo tức Cao Ðài là dung dưỡng cho một ổ cách mạng. Họ đã dùng hết dã tâm cũa họ mà làm cho đến nỗi lúc bấy giờ chẳng có ngày nào, mà Ông Lê Văn Trung chẳng bị ông Thẩm án nầy đòi hay là Tòa kia đem ra xử. Còn những Chức Sắc nào trong Ðạo mà ái mộ Ông Giáo Tông, thì họ lại kiếm phương nầy, thế
khác mà làm cho bị tù, bị tội.[*1]
Ðương giữa buổi nguy nan như thế, Ông Lê Văn Trung vẫn cứ điềm tỉnh, ngồi lo sắp đặt công việc bên Nữ phái trong Ðạo, mong sao cho Nam-Nữ được bình quyền mà nói rằng: "Ðiều ấy là một cái xa vọng của tôi đã có từ khi đương còn ở ngoài đời, cho đến ngày nhập Ðạo. Lúc trước tôi đã giúp bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ Hữu lập trường Nữ Học, bây giờ tôi hiệp sức với bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh tổ chức các Nữ Viện cũng đồng một ý nghĩa. Tôi chỉ ước ao sao cho cái «Nam-Nữ bất bình đẳng» ở ngoài đời chẳng còn trong Ðạo nữa..."
Có nhiều người thấy Ông điềm nhiên như vậy, thì tức mà hỏi:
- Ngài không dùng phương pháp chi để đối phó với mấy kẻ tiểu nhơn kia sao?
- Sao mà lại được kêu những kẻ ấy là tiểu nhơn? Nếu may mà mình phải, thời tự nhiên một ngày kia người ta sẽ biết quấy, lo ngại chi sự ấy.
Song, than ôi! Lời nói đó chỉ là đúng với lý tưởng của người lương thiện, tu hành. Chớ thật tế ở đời nầy có đâu được như thế.
Quả vậy, sau khi đối với Ðạo, Ðạo biết Ông vô tội; đối với Tòa, Tòa biết Ông vô tội; sau khi cái danh hành Ðạo của Ông được trắng như tuyết, sau khi hai Ông Đốc Phủ Trang và Tương, vì tội vu cáo mà bị trục xuất khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, thì Ông Lê Văn Trung, nguyên Thượng Nghị Viện thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, Giáo Tông Cao Ðài, lại do hai cái án "tuần cảnh" phạt hai tên đánh xe bò của Tòa Thánh về tội xe không thấp đèn và "bò thiếu dây buộc ách" mà phải bị bắt vô chịu tù ở khám đường Tây Ninh. Ngày Ông vô khám nhằm lễ khai hạ, mồng bảy Tết năm Giáp Tuất (1934) trước Vía Trời vài ba bữa.[*2]
Tôi còn nhớ khi sơn đầm đem hai bổn sao lục của hai cái án nói trên đây vô Giáo Tông Ðường đặng bắt Ông ra Tòa Bố Tây Ninh, thì ông chậm rãi, khăn áo chỉnh tề, mang Bắc Ðẩu Bửu Tinh và huy hiệu Giáo Tông vào rồi đi theo sai nha không nói một tiếng chi khác hơn là dặn các Giáo Hữu, các Tín đồ hãy yên lặng mà lo việc cúng Vía.
Mấy ngày Ông ngồi trong khám, ngoài Tòa Thánh từ các Chức Sắc cho đến Tín đồ họ đều nhịn đói mà chờ Ông.
Mãn hạn ba ngày, Ông về đến Tòa Thánh, Chức Sắc, Tín đồ, người khóc, kẻ ôm tay Ông hun, Ông xem cũng như tuồng có ý cảm động nhiều hơn trong những dịp khác.
Làm Lễ vía Trời vừa xong, thì Ông liền viết một bức thơ gởi cho Chánh phủ mà xin trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại.
Thơ ấy có nhiều câu ý vị sâu xa. Song tôi không muốn thuật ra đây, vì sau khi Quan Toàn Quyền ROBIN qua trấn nhậm, Ông đã có vào diện yết Ngài và hai đàng cũng đã điều đình xong việc "tự do tín ngưỡng" của Ðạo, thì nhắc lại chuyện cũ sợ e có hại đến hòa khí của Ông đã đào tạo ra.
Tôi chỉ muốn thêm rằng trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh là một "việc làm" sau hết của cái đời sống của Ông và nhắc lại lời của Ông đã cắt nghĩa "việc làm" ấy:
- "Ðừng tưởng tôi trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh mà còn có ý chi phiền Chánh phủ, trách những nhà đương quyền lúc bấy giờ. Danh giá thể thống của Viện Bửu Tinh buộc tôi phải làm như vậy. Tôi mà nói đây chẳng phải vì nghi sợ điều chi mà chỉ vì ước ao ai nấy đều hiểu rằng tôn chỉ, mục đích của Ðạo chúng tôi là hòa bình, thân ái khắp cả chúng sanh «nhứt thị đồng nhơn» thì chúng tôi đâu được phép phiền trách hờn giận. Huống chi, theo thiển kiến của tôi đối với vấn đề thực dân, thì dầu cho lúc ban sơ nó là «việc làm do ở cường quyền» song dần dần bên cai trị và bên bị cai trị cùng nhau tiếp xúc, rồi biết rõ nhau mà yêu nhau, thì chúng ta lại có thể hi vọng rằng cái «việc làm do ở cường quyền» kia sẽ thành ra một mối dây đoàn thể, thân thiện của dân tộc nầy đối với dân tộc
khác."
.gif)
Ðã nói đến thân thế sự nghiệp của Ông LÊ VĂN TRUNG, tất nhiên là phải bàn đến Ðạo Cao Ðài. Vì ông là một người sáng lập, lại là một ông Giáo Chủ. Ðạo Cao Ðài mà phải, thì Ông là công Thủ, Ðạo Cao Ðài mà quấy, thì Ông lại là tội Khôi.
Song tôi còn nhớ Chương Thái Viêm, một nhà bác học Tàu mỗi khi thảo luận đến các vấn đề Tôn giáo đều có nói: "Thiên trung điểu tích, họa giả giai nan - Dấu chơn của con chim bay trên không, thợ vẽ nào cũng phải chịu là khó."
Thật thế, người ta mà muốn tìm ra cội rễ của Tôn giáo thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chơn của chim bay trên không.
Huống chi, Ðạo Cao Ðài mới phát hiện ra ở xứ nầy chưa đầy chín năm, bao nhiêu những lý thuyết hình thức của Ðạo hiện đương còn ở thời kỳ phôi thai và do Cơ Bút mà có, thì chẳng thế chi nghị luận cho được xác đáng.
Người tín ngưỡng do sự thần bí mà tín ngưỡng đã đành; chí như những kẻ công kích mà cũng đem sự thần bí ra đặng công kích thì thật là lạ.
Song dầu chi đi nữa, tôi cũng nhớ rằng cái "biết" của loài người ngày nay chưa có thể chi giải quyết được những chỗ khuyết nghi ấy và ở trong khoản vài chục trương giấy viết ra cho kịp ngày điếu tang, thì tôi đâu dám đem một vấn đề trọng đại như vấn đề Tôn giáo mà nghị luận.
Tuy nhiên, trước khi ngừng bút, tôi còn muốn đứng về phương diện xã hội mà Ông Lê Văn Trung sanh tiền, thường gọi là Nhơn Ðạo, mà kết luận:
Sự hành động của Ðạo Cao Ðài, từ khi sáng lập đến nay, không phải là mỗi mỗi đều được tận thiện tận mỹ. - Ở trong đời có chi là tận thiện tận mỹ? - Song nếu xét ra cho thật công bình, thì Ðạo Cao Ðài chưa hề làm điều chi có hại đến nhân quần xã hội. Trái lại, Ðạo Cao Ðài đã nhờ truyền bá giỏi, tổ chức hay mà gây nên tình thân ái, đoàn thể trong một triệu mấy dân Nam Kỳ là một việc đáng làm cho ai cũng nên kính phục.
Ðó là tôi chưa nói đến cái đức tin rất mạnh mẽ của Tín đồ. Tôi chưa nói, là vì trước khi tôi muốn nhắc cho các Thiên Phong Chức Sắc trong Ðạo có trách nhậm kế chí của Ông Giáo Tông, đều nhớ rằng: Ðức tin là một con dao hai lưỡi. Nếu dùng nó phải, thì chẳng chi lợi bằng, nếu dùng nó quấy, thì chẳng hại nào hơn.
Và chỗ đó là tội là công của Ông Lê Văn Trung vậy.
Viết tại Saigon ngày 29 Novembre 1934.

____________________________________
Ghi Chú:
(1) Lúc bấy giờ ông Nguyễn Phan Long chưa phải là người trong Đạo Cao Đài, thì tự xưng là Giáo Sư. Còn hiện nay lẽ ra ông là Cao Đài, thì ông lại bảo rằng: "Tôi với Đạo Cao Đài chẵng dính dấp chi hết."
(2) Theo trong Giấy Căn Cước của ông thời 1876, theo trong bằng cấp Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại là 1875. Ông tuổi Tý, thì có lẽ là 1875 đúng hơn.
* Nói xấp nhập: nói hàm hổn, không phân biệt (Tham khảo: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Huình Tịnh Của - 1895 - Quyển 2, trang 575).
* Thệ thế: 逝世 Chết (Tham khảo: 1.) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Huình Tịnh Của - 1895 - Quyển 2, trang 381). 2.) Hán Việt Tự Điển Thiều Chửu: Đi không trở lại nữa. Vì thế nên gọi người chết là trường thệ 長逝 hay thệ thế 逝世. (http://vietnamtudien.org/thieuchuu/).
* Baria: |
Bà Rịa |
|
* "đít cua" |
Pháp ngữ "discours" |
Việt ngữ "lời nói"; |
* "ùy ùy" |
Pháp ngữ "oui oui" |
Việt ngữ "vâng dạ"; |
* "mày đai" |
Pháp ngữ "médaille" |
Việt ngữ "huy chương". |

____________________________________
PHỤ GHI:
[*1] Ban Đạo Sử ghi lại nơi quyển Tiểu Sử Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) - Tái bản lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ năm Đinh Sửu 1997 như sau:
Ai ngờ hai chữ "Giáo Tông" lại thành ra cái cớ để khiến những tay cầm quyền Ðạo đương thời họ đã làm cho nảy sanh chẳng biết bao nhiêu việc chia lìa, oán khích. Chẳng những là ở trong Ðạo thì họ đã buộc tội, viết tờ Châu Tri để thống mạ, mà ngoài đời, thì họ lại còn xúi giục Tín đồ lầm lạc đem những việc phi lý, vô bằng đến Tòa mà kiện và vu cáo với các nhà đương quyền rằng để cho Ông Lê Văn Trung cầm quyền Ðạo tức Cao Ðài là dung dưỡng cho một ổ cách mạng, họ đã làm cho đến nỗi lúc bấy giờ chẳng có ngày nào, mà Ông Lê Văn Trung chẳng bị ông Thẩm án nầy đòi hay là Tòa kia đem ra xử. Còn những Chức Sắc nào trong Ðạo mà ái mộ Ông Giáo Tông, thì họ lại kiếm phương nầy thế khác mà làm cho bị tù bị tội.
[*2] Ban Đạo Sử ghi lại nơi quyển Tiểu Sử Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) - Tái bản lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ năm Đinh Sửu 1997 như sau:
Sau khi đối với Ðạo, Ðạo biết Ông vô tội; đối với Tòa, Tòa biết Ông vô tội; cái danh hành Ðạo của Ông được trắng như tuyết.
Ông Lê Văn Trung, nguyên Thượng Nghị Viện thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, Giáo Tông Cao Ðài, lại do hai cái án "tuần cảnh" phạt hai tên đánh xe bò của Tòa Thánh về tội không thấp đèn và bò thiếu dây buộc ách mà phải bị bắt vô chịu tù ở khám đường Tây Ninh. Ngày Ông vô khám nhằm lễ khai hạ, mồng bảy Tết năm Giáp Tuất (1934) trước Vía Trời vài ba bữa.
Ân bàn theo bản in
Tiểu sử của Ông LÊ VĂN TRUNG Giáo Tông Đạo Cao Đài / Diệp Văn Kỳ - Novembre-1935.
In tại nhà in BAO-TON 175, Boulevard de la Somme SAIGON.
Nguồn tài liệu: Thư viện Pháp (Bibliothèque nationale de France)
https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k4239963h/
HIỆU ĐÍNH CHỮ QUỐC NGỮ
1. Theo chánh tả hiện hành.
2. Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
3. Việt Nam Tự Điển – Hội Khai Trí Tiến Đức -1931.◙ |
|

BÀI VĂN TẾ
CỦA BÀ CHÁNH PHỐI SƯ LÂM HƯƠNG THANH
Đọc trong lễ tế của Nữ Phái Cao Đài
sáng bữa 2 Décember 1934
Thời duy Giáp Tuất niên, thập ngoạt, nhị thập ngũ nhựt.
Kim hữu Đạo muội Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh, hiệp đồng Nữ Phái Chức Sắc Đạo Hữu đẳng, cẩn dụng trai bàn trà, hoa, tửu phẩm chi nghi, điện tế vu.
Cố Đại Hiền Huynh thọ Thiên ân Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, chi Linh tọa tiền.
Hởi ôi!...
Biển Phật mưa tuông!
Non Tiên gió thổi!
Cuộc dương thế sanh sanh hóa hóa,
Bóng phù du nhấp nháng qua đời;
Kiếp trần gian hiệp hiệp tan tan,
Đò Tạo Hóa rước đưa quá vội!
Hội biệt ly chi xiết nỗi sầu tư,
Niềm đồng đạo biết bao là tức tối!
NHỚ LINH XƯA
Nết đất hiền lành -
Ơn Trời tắm gội.
Bỏ đường đời qua đường đạo.
Một dạ lo toan;
Giúp bên nữ chủ bên nam,
Trăm chiều (chìu) bối rối.
Lúc khai Đạo Từ Lâm Gò-kén,
Công nhọc nhằn truyền bá phổ thông;
Sau dời về Thánh Địa Long Thành,
Tay gánh vát cột rường nguồn cội.
Thương em dại xem đồng ruột thịt,
Đường đi nất bước gắng dắc dìu;
Vì Đạo Thầy hiến hết thân phàm,
Nát thịt tan xương không từ chối!
Đạo mới mở gay go nhiều nỗi,
Dầm mưa chải gió chí càng bền; [*]
Phần Thiên cơ khảo lảo (khảo đảo) mấy lần,
Ngậm đắng nuốt cay lòng chẳng đổi.
Lời thị phi kích bác,
Dầu phải, dầu quấy chẳng đôi co;
Cam nhẫn nhục thiệt thòi,
Sự ức, sự oan đành nhận lỗi.
Những tưởng tuổi còn hưởng thọ,
Chốn Đạo trường đợi lúc thảnh thơi.
Nào hay số đã tới tuần,
Phần cựu vị vội đành bước trổi.
Ôi!...
Bát Nhã thuyền chờ,
Bồng Lai cảnh đợi.
Thảm là thảm tám chín năm lo Đạo,
Quên ăn bỏ ngủ, rồi bịnh mới phát sanh
Thương là thương năm mươi chín tuổi già,
Râu bạc tóc sương, mà đạo tâm không mỏi.
Trách những kẻ sanh tâm lẫn nghịch
Lời chông gay gieo mũi kiếm vô hình;
Làm cho Anh thân thể hao mòn,
Vì phiền não mà lốt trần phải cổi!
Anh còn mạnh thì kẻ mưu người kế,
Lời gươm dao đục đẽo tư bề;
Từ đây rồi mới an dạ vui lòng,
Lữa oan nghiệt lẫy lừng trăm nỗi!
Thôi Thôi!...
Mây phủ trăng lờ,
Sao sa đêm tối.
Kinh Bạch Ngọc Anh về chốn củ,
Giấc chiêm bao vắng bóng ngàn năm;
Cảnh hồng trần em ở lại đây,
Sầu ly biệt chia lòng trăm mối.
Bề tiến đạo ai dẫn đường chỉ lối?
Não nồng thay lớn nhỏ thở than;
Lễ tống chung đều thọ chế, cư tang,
Thảm thiết bấy trẻ em khóc tủi!
Người tuy mất phương danh không mất,
Chúc Linh hồn an bước Tiên du;
Đời đương còn Đại Đạo cũng còn,
Xin bảo hộ hoằng khai Thái hội.
AI TAI THƯỢNG HƯỞNG! |

____________________________________
[*] Dầm mưa chải gió đồng nghĩa với tắm mưa chải gió. Tắm mưa chải gió: Chịu lao khổ
[Đại Nam Quấc Âm Tự Vị Huình Tịnh Của - 1895 - Quyển 1, trang 115].
Phụ lục bài văn tế của Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh - Tiểu sử của Ông LÊ VĂN TRUNG Giáo Tông Đạo Cao Đài / Diệp Văn Kỳ - Novembre-1935 In tại nhà in BAO-TON 175, Boulevard de la Somme SAIGON.◙ |
|

 |
|
LUẬN ĐẠO CHƠN NGÔN |
Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.
ừ cổ chí kim, nước nào, sắc dân nào cũng vậy, đều có lòng tin tưởng Trời Phật. Mỗi nơi đều tùng theo phong hóa thổ nghi của nước nhà mình mà tỏ sự tín ngưỡng, với thờ phượng. Chỗ theo Đạo Trời thì thờ Trời, người thờ Phật thì kính trọng Phật, cho Phật là lớn, người thờ Thánh Thần thì tin tưởng Thánh Thần, chớ kỳ trung có một Đấng Tạo Hóa Chủ Tể Càn Khôn Thế Giái, điều đình Tứ Đại Bộ Châu, Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, cùng Thất Thập Nhị Địa. Ấy là quyền hành vô biên của Đấng CHÍ TÔN, người Nam mình gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, hay là Ông Trời.
Trời Phật cũng là Thầy là Đấng CHÍ TÔN. Từ thuở âm dương tương hiệp càn khôn phát khởi, Đấng CHÍ TÔN hóa sanh loài người và muôn vật, người ta mới tu thành Phật, Tiên, Thánh, Thần, mới sanh ra Ngũ Chi ĐẠI ĐẠO: 1. Nhơn Đạo, 2. Thần Đạo, 3. Thánh Đạo, 4. Tiên Đạo, 5. Phật Đạo.
Ấy là tôi chỉ sơ Đạo cho chư Hiền Hữu chư Hiền Muội rõ biết, chớ còn nói việc huyền bí cao thượng thì phần nhiều Đạo Hữu chúng ta không thấu đáo làm cho rối loạn tinh thần chư Đạo Hữu chư Đạo Muội vì có lời Đức Khổng Phu Tử nói rằng: Những việc vô vi khó thấy, khó hiểu, nếu không cẩn thận mà đem những việc ấy ra nói với người thường thì người ta hay hiểu lầm mà tin bậy.
Bởi vậy, có nhiều người sai lầm mà tuyệt cốc, luyện Đạo, phi bùa, tập chú, vân vân... ấy là mưu tà quái, dụ dỗ mấy người mê tín vô hang sâu vực thẳm. Vậy nên những điều huyền bí mà có thể làm cho người ta mê tín, loạn tưởng, không có ích gì cho sự sanh hoạt của đời, không có dạy hạnh nết lễ nghĩa khiêm cung cho sanh chúng, không phải việc thật hành đặng thì tôi không chịu giảng dạy, vì là xa chuyện chơn thật “LA VÉRITÉ”. Đức Vân Trung Tử cũng có dạy tôi rằng:
Trần là cõi khổ để đọa bực Tiên Thánh có lầm lỗi ấy là cảnh sầu để trả xong quả báo oan khiên rồi hoặc về ngôi cũ hoặc phải khổ não chơn linh mà luân hồi lại nữa, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần.
Còn ĐẠO là gì? ĐẠO sao gọi ĐẠO?
THƯỢNG TRUNG NHỰT bạch:
Đạo kể từ khí Hư Vô sanh Thái Cực vân vân...
VÂN TRUNG TỬ: Đạo Hữu nói cao xa quá, phần nhiều chưa hiểu đặng...
- Đạo tức là con đường để cho các Thánh Tiên Phật đọa trần do theo đó mà hồi cựu vị. Đạo là đường của bậc nhơn phẩm do theo lánh khỏi luân hồi chuyển kiếp, nếu chẳng do theo Đạo thì các bực ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.
Đạo nghĩa lý rất sâu xa nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó rồi mới học các nghĩa huyền vi bí mật khác cho đích xác đặng.
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ đã khai ra được bảy năm mà phần nhiều chư Đạo Hữu chư Đạo Muội chưa rõ thấu tại sao Đạo khai trong thế kỷ hai mươi đây và tại sao Đạo khai trong nước Nam ta?
Từng nghe: Thiên Địa tuần hườn, Châu nhi phục thỉ, từ tạo Thiên lập Địa, càn khôn phát khởi tới ngày nay biết mấy muôn mấy vạn lần, xuân qua hè lại đông mãn thu tàn, thỏ lặn ác tà. Nay tới đời Hạ ngươn mạc kiếp nên gọi là cuối cùng.
Phàm muôn việc đều có thỉ có chung, có khởi có cùng như một ngày một đêm mười hai giờ khởi ư Tý, tới Hợi cùng rồi thì cũng khởi lại ư Tý, mỗi tháng khởi mồng một tới ba mươi, rồi cùng khởi mồng một lại nữa, năm khởi tháng giêng rồi tới tháng chạp, cuối năm rồi củng khởi lại tháng giêng. Mỗi tháng chia ba tuần, mỗi tuần mười ngày, mổi năm chia ra tam ngươn, Thượng ngươn, Trung ngươn, Hạ ngươn...
Ấy là luật tuần hườn của Trời Phật định. Việc thế thì cũng phải có tuần hườn vậy. Trời đất cũng chia ra Tam ngươn: 1. THƯỢNG NGƯƠN là Ngươn TẠO HÓA, ấy là Ngươn THÁNH ĐỨC tức là Ngươn vô tội (Cycle de Créationc/est à dire Cycle de l’innocence). 2. TRUNG NGƯƠN là Ngươn TẤN HÓA, ấy là Ngươn TRANH ĐẤU, tức là Ngươn tự diệt (Cycle de progrès ou Cycle de lutte et destruction). HẠ NGƯƠN là Ngươn BẢO TỒN, ấy là Ngươn TÁI TẠO tức là Ngươn qui cổ (Cycle de conservation ou Cycle de reproduction et rénovation).
Thiên Địa tuần hườn châu nhi phục thỉ...
Nay Hạ ngươn hầu mãn kế Thượng ngươn khởi lại nên nhơn vật đổi dời.
Rung rinh Trời Đất.
Chuyển động kiền khôn.
Khuẩn bách cả hoàn cầu nhơn sanh nên đồ khổ.
Đạo là tối trọng tối quí trong Đời. Đạo Đời đi cặp nhau, Đạo như cái lưới bao trùm càn khôn thế giái, không việc chi từ lớn chí nhỏ mà ra khỏi Đạo. Nay vì cuộc tuần hườn và vì bổn nguyên háo sanh, nên Đấng CHÍ TÔN chuyển Đạo lại.
Vẫn hồi tạo Thiên lập Địa, Đạo phát ư Đông (là các nước nơi miền Á Đông như Trung Huê, Nhựt Bổn, Ấn Độ, Xiêm, Đông Pháp vân vân...) thì nội vùng Á Đông đây có Đức Nhiên Đăng Cổ Phật và Đức Thích Ca khai Đạo Phật, Đại Đạo là Đạo Tiên thì có Đức Thái Thượng và Lão Tử, Đạo Thánh thì có Văn Tuyên Khổng Thánh và Khổng Phu Tử.
Sau lần lần Đạo trải khắp qua Tây nên Đức Chúa Giê Giu khai Đạo nơi miền Âu Châu, (551 năm sau Khổng Phu Tử), kế Đạo mới roi truyền trải khắp năm châu. Ngày nay là châu nhi phục thỉ nên Đấng CHÍ TÔN chuyển Đạo lại Á Đông đây là nơi nguồn Đạo phát ra. Bởi cớ ấy nên trong bài Khai Kinh của Đức Lữ Tổ có hai câu đầu như vầy:
“Biển trần khổ vơi vơi Trời nước,
Ánh Thái Dương giọi trước phương Đông”.
Và trong một bài Thánh Ngôn chữ Langsa của Đức Lý Thái Bạch cho M. D .ROSS có câu:
“De l’Orient l’Oceident voit poindre l’aurore”.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Người nước Nam từ cổ chí kim thì không có Đạo trong nước nhà, nên nước phải hèn, dân phải yếu, dầu vậy người Nam ta vẫn có tâm Đạo, người Nam trổi danh khắp hoàn cầu về bề tín ngưỡng Đạo Phật, Đạo Tiên, Đạo Nho tuy khai bên Ấn Độ và bên Trung Huê, sau người Nam biết đặng, thì cũng hết lòng sùng bái. Đạo Gia Tô của mấy vị Linh mục bên Thái Tây đem gieo truyền bên nước ta, thì người Nam cũng kỉnh trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa đi miễu, đi nhà thờ cầu khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng mộ Trời Phật, người không đi chùa, đi miễu, không đi nhà thờ thì trong nhà cũng thờ ông bà cha mẹ quá vảng, ấy là Đạo Nho. Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ rằng người Nam Việt tin tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần, tin tưởng chắc rằng chết thì cái xác phàm nầy chết, tiêu diệt,
chớ linh hồn bất tiêu, bất diệt (1).
Thiệt là một dân tộc:
Kỉnh thiên háo thiện; Bất hi sanh sát,
Quân nhơn thần trung; Phụ từ tử hiếu.
Vì Đạo tâm ấy, mà trong thời kỳ chuyển Đạo nầy, Đấng CHÍ TÔN thương lòng thành thật của nhơn sanh nơi đây nên khai TAM KỲ PHỔ ĐỘ (ân xá lần thứ ba) nơi đây.
Tuy khai Đạo tại nước Nam vì nước Nam cũng trong vùng Á ĐÔNG mà cũng khởi ư Đông. Bàn cổ sơ khai, Thiên sanh ư Tý, Địa tịch ư Sửu, nhơn sanh ư Dần, từ năm Bính Dần, Đạo phát khai tại TÂY NINH là Cực Đông của Nam Kỳ, lần lần truyền ra GIA ĐỊNH, BÀ RỊA, BIÊN HÒA, THỦ DẦU MỘT, CHỢ LỚN là mấy hạt về hướng Đông. Qua năm thứ nhì, thứ ba Đạo mới truyền ra mấy hạt hướng Tây.
Luôn dịp tôi cũng lục rút ra đây mấy lời tiên tri của Thầy hồi buổi khai Đạo:
Mardi 7 Sept. 1926 (Mồng 1 tháng 8 Bính Dần).
THẦY.
Các con,
TRUNG, nghe con. Con biết rằng TÒA THÁNH THẦY phải lập tại TÂY NINH, THẦY đã cho con hiểu là Thánh Địa nữa. Nguồn Đạo THẦY nơi đó mà xuất thấu thế gian.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Trong thời đợi Hạ ngươn đây nhơn loại ở thế gian phần đông vì ham văn minh vật chất, ham ăn mặc sung sướng, nên phải giành giựt cấu xé vì mồi phú quí, bả vinh hoa, vẻ đai cân, mùi chung đỉnh, nên biến sanh ra nhiều cảnh mạnh còn yếu mất, đua chen lẫn lộn, tràn nhẩy khắp nơi.
Than ôi! Nhơn sanh như thế sao khỏi động lòng Trời.
Đấng CHÍ TÔN, vì háo sanh, Đại Từ Đại Bi, thấy nhơn loại đương mờ mệt trong vòng hắc ám, tranh tranh đấu đấu kết cuộc oan gia, không tùng chơn lý nên Đấng CHÍ TÔN khai Đạo cứu đời ngỏ hầu dìu dắt nhơn sanh về đường qui cổ, đặng hết lòng thành thật đối đãi cùng nhau, phải biết tương thân tương ái, đừng cố kết oan gia gây nghiệt chướng.
Trời thấy người Nam là một sắc dân đê hèn mà biết tin tưởng Trời Phật, nên lúc cuối cùng đây khai Đạo trong nước Nam. Có bài tứ tuyệt như sau nầy:
Từ trước nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay ta gầy dựng lập nên ra.
Ví dầu ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ roi sau biến hóa già.
Nước mà không Đạo cũng như người không hồn; nhà không Đạo đức thì tự nhiên cang thường luân lý phải suy bại.
Khoản trên đây tôi đã nói trong thế sự vạn vật vạn linh đều có đôi bên, một bên hữu hình và một bên vô hình, hữu hình hữu hoại, vô hình bất tiêu bất hoại.
Hữu hình là vật chi mình rờ nắm được như cái bàn, cái ghế, cục đá, khúc cây, cái xác phàm của ta đây là hữu hình vì ta rờ nắm được, ấy vậy xác phàm của ta phải tiêu phải diệt.
Còn vô hình như gió như mây, muôn năm ngàn kiếp gió mây có tận tuyệt bao giờ, mà đã có ai bắt gió đón mây cho được. Linh hồn ta cũng như gió như mây vậy, thì bất tiêu bất diệt, nên phải luân hồi chuyển kiếp, tùy theo việc hành vi và công quả của ta câu kết nơi trần thế đây. Hễ hiền thì thăng, dữ phải đọa, vay vay trả trả y theo Thiên Điều phân định, lổ kim không lọt, một mảy chẳng sai, nên Thánh nhơn Ngài có chỉ trong câu: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”.
Than ôi! Ít người nghĩ cho kỹ trong cuộc trần thế nầy nhiều bẫy rập níu kéo chúng sanh đem thân trần cấu gieo miền trầm luân; ai ai cũng tranh giành nhau trên đường danh bể hoạn, lo ăn ngon mặc đẹp; ở lầu cao cát rộng, nhà dọc dãy ngang, thềm gấm sân hoa, tiêu xài huy hoát.
Than ôi! Đường thế bày trò hư hoại, chốn hí tràng qua lại ngựa xe.
Ít ai ngó thấy các điều vinh huê sung sướng, ấy là sóng bủa chụp người, gài người trong biển thảm.
Than ôi! Nhơn loại chỉ biết đời, bao giờ nghĩ đến Đạo; người một họ mà nhiều khi nhìn như kẻ Tần người Việt, trong một làng một xóm cùng nhau mà coi như cách biển Sở sông Ngô! Chỉ bo bo lo cho mình, một mình mình ấm, một mình mình no, một mình mình yên vui, một mình mình sung sướng! Từ sớm mai đến tối, từ tối đến sáng, thỏn mỏn lần lựa tháng ngày, cư lo giành giựt, giựt giành lao thân tiêu tứ.
Ít ai nghĩ khi hồn lìa khỏi xác thì đem theo có một chữ tội với một chữ phước.
Người hiền tu tâm dưỡng tánh, biết thương đồng loại, biết giữ đạo nhơn luân, thì hồn được siêu thăng tịnh độ.
Người ít nhơn đức hơn nữa, nếu cũng có làm lành lo âm chất trong khi ở thế thì đầu thai lại làm người mà hưởng phước. Còn kẻ vô đạo đức không kể nhơn luân, chẳng biết thờ Trời kỉnh Phật, Tiên, Thánh, ngăn cản đường tu của người thì phải bị đọa A Tỳ, chịu ngục hình khảo phạt trừng trị những tội ác đã gầy nên trên thế sự. Ấy là những việc huyền bí nhiệm mầu trong Đạo.
Người muốn cho linh hồn khỏi mấy điều khổ nhọc ấy thì phải biết Đạo đặng trao giồi hạnh đức, phải lo tu tâm dưỡng tánh.
*
* *
Tu nghĩa là trau giồi tánh hạnh, đi từ bước lần từ bực, học hỏi mới biết mầu nhiệm sao sâu.
Tu không phải từ mai đến chiều tụng kinh gõ mõ mới gọi rằng tu.
Tu có nhiều bực: Bực Thượng thừa, phải ép mình hành xác, phải nâu sòng khổ hạnh, lo làm âm chất, lo công quả cho Trời Phật, chừng quả mãn mới tìm chỗ u nhàn mà tịnh dưỡng tinh thần, xa đường tục lụy ấy là bực Thượng thừa. Nếu trong thế gian nầy mỗi người đều phế công việc mà tìm chỗ u nhàn như vậy thì thế sự nầy phải ấm lạnh, có ai đâu mà lo nhơn đạo.
Nên Đạo nào, bực tu nào cũng phải lo nhơn đạo trước.
Con người ở thế, cả cá nhơn đều có phận sự, có trách nhậm nhiệm mầu, nếu bỏ nhơn sự thì thất nhơn đạo.
Ấy vậy trước hết phải biết Đạo là biết có Trời Phật Tiên Thánh, phải biết có luân hồi chuyển kiếp, có luật Thiên Điều hành phạt, thưởng răn một mảy chẳng sai.
Theo Nhơn Đạo, trai thì lo Tam cang, Ngủ thường, gái thì lo Tam tùng, Tứ Đức. Trước hết lo tu tại gia, tại thiền, tại thị. Lo làm lành lánh dữ trau giồi tâm tánh ấy là tu.
Đạo làm người Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, phải giữ hẵn hòi, Tam cang tua nắm chặc.
Ở thế phải tùng theo luật thế. Đối với viên quan chức sắc phải biết bổn phận làm dân, phải nhớ câu sám hối:
“Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà”.
Nếu mình sanh rối loạn ở trong xã tắc, nếu mình không tuân pháp luật, thì mình là người loạn, có Đạo đức chi.
Đối với cha mẹ, vợ chồng, anh em, chị em, con cái thì là phải biết công ơn sanh thành dưỡng dục là ơn trọng không xiết kể, phải giữ câu Hiếu Đễ mà bồi đấp ân sâu.
Vợ chồng tào khang nghĩa trọng, giàu khó có nhau, phải nâng đỡ nhau trên đường hoạn lộ, đối đáp với nhau như cân thăng bằng, giữ được như vậy mới là trọn nghĩa.
Anh em cốt nhục đồng bào phải giữ chữ thuận hòa là trọng.
Đạo làm cha là thay mặt cho tạo hóa đặng dìu dắt linh hồn ấu nhi trọn bề Đạo đức, ai giữ mấy giềng ấy cho hoàn toàn thì lo gì không gần Thiên Đạo.
TÒA THÁNH (Tâyninh) le 1er Juillet 1932.
THƯỢNG ĐẦU SƯ
THƯỢNG TRUNG NHỰT

________________________________________
(1) Trong càn khôn thế giái, trong vạn vật vạn linh, đều có đôi bên: Một bên hữu hình (la matière) một bên vô hình (l’essence), hữu hình thì tiêu thì diệt, vô hình thì bất tiêu bất diệt.
Ân bàn theo bản in
Luận Đạo Chơn Ngôn của Ông Thượng Đầu Sư.
Imprimerie DUC-LUU-PHUONG 158. Rue d'Espagne. SAIGON
Nguồn tài liệu: Thư viện Pháp (Bibliothèque nationale de France)
https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k4241772k/
HIỆU ĐÍNH CHỮ QUỐC NGỮ
1. Theo chánh tả hiện hành.
2. Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản tháng 4 năm 1970.
3. Việt Nam Tự Điển – Hội Khai Trí Tiến Đức -1931.◙ |
|

 |
|
Vài cảm nghĩ về
TÂN LUẬT PHÁP CHÁNH TRUYỀN |
Huy Ngọc Đặng Văn Hồng Lạc.
hời gian cách nay khá lâu, thỉnh thoảng chỉ khi nào gặp việc dính dáng đến vấn đề luật pháp trong đạo, mà tôi nhớ mang máng là đã có minh giải trong quyển Tân Luật Pháp Chánh Truyền thì tôi mới dở quyển luật nầy ra tìm đọc ít trang. Xong việc tôi gấp lại và cho nó nằm ngủ lì trên giá sách. Và mỗi lần đọc đến nó tôi chỉ đọc phớt nhanh qua vậy thôi, chẳng mấy khi tôi để tâm chăm chú tìm hiểu từng khúc chiết chứa đựng trong đó. Có lần tôi đã đọc suốt quyển, nhưng đọc để mà đọc chớ chẳng phải đọc để nguyên cứu cho tường tận mọi đìều ghi chép trong đó. Không phải lười khảo cứu hay biếng đọc sách, song vì lúc đó tôi cứ nghĩ dại dột là, vấn đề tôn giáo là vấn đề tu hành, tu hành là việc dành cho người lớn tuổi, vậy hơi đâu mà bận tâm nguyên với cứu những sách vở đạo giáo
vừa khó hiểu, vừa khô khan.
Đến lúc sau nầy có dịp phải nghiên cứu kỹ càng về luật Đạo tôi mới hốt nhiên tỉnh mộng, tôi mới nhận thức được rằng vào đạo Cao Đài mà không hiểu biết gì Ơn Trên đã phán truyền trong quyển Tân Luật Pháp Chánh Truyền thật là một điều đáng tiếc. Nhờ có tìm hiểu trong đó mà tôi ý thức được cái duyên do vì sao khi người Pháp còn đặt nền đô hộ tại Việt Nam, họ luôn tìm cách tiêu diệt đạo Cao Đài. Ấy cũng bởi vì họ tưởng lầm rằng đạo Cao Đài là một tổ chức chánh trị. Họ bảo đạo Cao Đài là "UN ÉTAT DANS UN ÉTAT", nghĩa là "một quốc gia sống trong một quốc gia", mà quyển Tân Luật Pháp Chánh Truyền là một Hiến Pháp trá hình. Nhưng rồi sự thật bao giờ cũng là sự thật. Đạo Cao Đài do chính bàn tay mầu nhiệm tối thượng của đấng Cha chung toàn thể vạn linh sanh chúng hoằng
khai, để tế độ loài người đang trầm luân trong khổ hải, lúc nào cũng là một nền chơn giáo, một tôn giáo mở ra khuyên người tu niệm, làm lành lánh dữ, trau tâm sửa tánh cho trở về đặng chỗ trọn lành mà thôi. Chánh trị là chánh trị. Tôn giáo là tôn giáo. Nhưng tôn giáo không phải không có luật tắc, không có tổ chức, nhứt là trong tình trạng tiến hóa của chúng sanh thời đại hiện tại. Tôn giáo không phải là chỉ dành cho người lớn tuổi hoặc cho những người đã chán đời, mà cho mọi lứa tuổi, cho mọi hạng người. Tôn giáo không phải sống ngoài lề cuộc sống của nhân loại, mà nó luôn luôn kề cạnh với mọi sinh hoạt của cả chúng sanh. Ấy vậy nên những gì Ơn Trên ghi chép trong Tân Luật Pháp Chánh Truyền chính là để giúp cho cơ cứu khổ của Đại Từ Phụ được thực hiện hữu hiệu theo thực trạng của
nhân sinh hiện nay đó thôi.
Dầu tôi đã đọc đi đọc lại, cố gắng tìm hiểu nhiều lần về Tân Luật Pháp Chánh Truyền, tôi vẫn e ngại rằng mình chưa hiểu thật rốt ráo cái nghĩa hay, cái ý đẹp của bộ luật nầy. Tôi tin rằng trong đó còn ẩn chứa những mầu nhiệm mà phàm trí tôi khó đạt thấu được. Đã đành Luật không phải là Kinh, song trong các Luật của đạo giáo thường nó không chỉ có phần công truyền mà còn có cả phần bí truyền (bí truyền chẳng phải là tâm truyền).
Trước kia, vì nông nỗi mà tôi cho rằng chắc là ấn công nhầm lẫn sắp lộn mấy câu trong Pháp Chánh Truyền, nhầm lẫn một cách tệ hại, vì ngôi Giáo Tông thì rõ ràng là lớn hơn phẩm vị Đầu Sư, còn Chánh Trị Sự thì bất cứ người Tín Đồ nào cũng biết là lớn hơn phẩm Phó Trị Sự và Thông Sự. Thế mà trong đó lại ghi CHÁNH TRỊ SỰ LÀ ĐẦU SƯ EM, PHÓ TRỊ SỰ LÀ GIÁO TÔNG EM, và THÔNG SỰ LÀ HỘ PHÁP EM. Tôi cứ đinh ninh là đã có sự nhầm lẫn của ấn công, mặc dầu khó có trường hợp nhầm lẫn như vậy, khi mà những đọan văn cách rời nhau khá xa. Tin là in sai nên tôi không thắc mắc gì về điểm nầy. Hơn nữa, như đã nói lúc trước tôi ít chịu nghiên cứu về kinh sách của Đạo. Đọc thì có đọc, cái gì hiểu được thì hiểu, khó quá thì thôi xin tạm dời lại đến lúc lớn sẽ hay. Lẽ dĩ nhiên sau nầy thì
tôi đã hiểu được chỉ có tôi nông nỗi, lạc lầm, chớ không có việc ấn công sắp sai chữ nơi các câu luật quan trọng nói trên.
Khi tôi hiểu được cái ý nghĩa Chánh Trị Sự tại sao là Đầu Sư Em mà không là Giáo Tông Em, và Phó Trị Sự tại sao không là Đầu Sư Em mà là Giáo Tông Em, thì tôi lại càng thêm sáng tỏ về cái QUYỀN THỐNG NHỨT của Ba Đầu Sư, một đặc quyền vừa là QUYỀN CHÁNH TRỊ lại kiêm cả QUYỀN LUẬT LỆ. Cũng bởi cái quyền đặc biệt nầy mà Chánh Trị Sự được gọi là Đầu Sư Em, mặc đạo phục Cửu Trùng Đài mà có thêm dây sắc lịnh màu trắng buộc ngang bụng (dây sắc lịnh tượng trưng cho luật lệ, tức quyền Tư pháp). Ngược lại, PHÓ TRỊ SỰ CHỈ CÓ QUYỀN VỀ CHÁNH TRỊ MÀ KHÔNG CÓ ĐẶNG THẨM QUYỀN VỀ LUẬT LỆ. Mặc đạo phục không có thắt dây sắc lịnh trắng ngang bụng. Và Thông Sự là người thay mặt cho Hộ Pháp giữ gìn luật lệ trong địa phương mình, KHÔNG CÓ QUYỀN VỀ CHÁNH TRỊ MÀ CHỈ CÓ QUYỀN LUẬT LỆ, mặc
đạo phục không có viền chỉ kim tuyến, hai bên cổ có thêu ba Cổ Pháp của Đạo y như của Hộ Pháp, có thắt dây sắc lịnh trắng. Quyền hành của Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự thật rành rẽ, phân minh, chẳng khác nào quyền hành của Giáo Tông, Hộ Pháp và Ba Đầu Sư đã cùng được minh giải trong Tân Luật Pháp Chánh Truyền. Và vì vậy mà Bàn Trị Sự được gọi là Hội Thánh Em, thay mặc cho Hội Thánh Lưỡng Đài trông nom săn sóc mọi sinh hoạt về tinh thần lẫn thể chất của bổn Đạo trong tư phương mình.
Chúng ta đều hiểu, khi khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn đã phân hai quyền Chánh Trị và Luật Lệ cho hai phẩm Giáo Tông và Hộ Pháp. Giáo Tông chưởng quản Cửu Trùng Đài là người thay mặc cho Đức Chí Tôn nơi hữu hình NẮM GIỮ QUYỀN CHÁNH TRỊ, TỨC QUYỀN HÀNH PHÁP. Và Hộ Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Đài thay mặt Đức Chí Tôn nơi hữu hình NẮM GIỮ QUYỀN LUẬT LỆ, TỨC QUYỀN TƯ PHÁP. Chánh Trị Sự là phẩm vị do Đức Lý Giáo Tông lập thành để chăm nom Đạo hữu trong phạm vi Hương Đạo. Đức Lý Giáo Tông đã xin Đức Hộ Pháp ban quyền Luật Lệ Hiệp Thiên Đài cho Chánh Trị Sự. CHÁNH TRỊ SỰ VỪA GIỮ QUYỀN CHÁNH TRỊ VỪA CÓ QUYỀN LUẬT LỆ nên đủ tư cách để điều hành công việc trong tư phương mình, tương tự Quyền Thống Nhứt của Ba Đầu Sư. Đức Lý nói; "Chánh Trị Sự là người thay mặt cho
Lão, làm anh cả của chư Tín Ðồ trong phần địa phận của nó, Lão muốn thế nào cho Lão có mặt khắp nơi, tận ven Trời cùng góc bể." Và xin Đức Hộ Pháp ban quyền Luật Lệ cho phẩm vị Chánh Trị Sự, Đức Lý Giáo Tông đã nói: "Trong nhơn sanh, hạng trí thức thì ít, hạng ngu muội thì nhiều, nếu chúng ta không có đủ sức điều đình, thì khó mà rải chơn lý Ðạo khắp nơi cho đặng. Càng thân cận với nhơn sanh lại càng chịu nhiều sự khó khăn rắc rối; chúng ta phải liệu phương nào mà trừ diệt những sự khó khăn ấy, khi mới nảy sanh ra. thì nền Ðạo mới khỏi loạn lạc. Vậy Lão xin Hiền Hữu ban quyền cho Chánh Trị Sự đặng phép xử trị, hầu có thể dạy dỗ sửa răn, thay quyền cho chúng ta trong chốn thôn quê sằn dã" Pháp Chánh Truyền gọi BÀN TRỊ SỰ LÀ HỘI THÁNH EM. Trong Hội Thánh chỉ có Đầu Sư là phẩm vị
được thay mặt cho Giáo Tông và cả Hộ Pháp, có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư Môn Đệ "Chí Tôn". Cũng tương tự, trong Hội Thánh Em phẩm Chánh Trị Sự thay mặt cho Giáo Tông và Hộ Pháp giữ quyền Chánh Trị Cửu Trùng Đài và Luật Lệ Hiệp Thiên Đài, tức CÓ QUYỀN CAI TRỊ PHẦN ĐẠO VÀ PHẦN ĐỜI của chư Môn Đệ Chí Tôn trong phạm vi Hương Đạo của mình. Bởi Chánh Trị Sự giữ quyền Thống Nhứt trong Hội Thánh Em nên được gọi là Đầu Sư Em. Quyền hạn Chánh Trị Sự rất rộng rãi và bổn phận qui định trong Pháp Chánh Truyền cũng rất khó khăn, nên luật lệ bắt buộc Chánh Trị Sự trước khi lãnh trách nhiệm phải đến Thánh Thất sở tại lập minh thệ. Lời thệ đó định trong Pháp Chánh Truyền như sau: "giữ dạ vô tư mà hành Đạo dầu cha mẹ, anh em, vợ con cũng chẵng đặng phép tư vị, gìn dạ chơn thành thể
Thiên hành Đạo".
Còn Phó Trị Sự và Thông Sự thì mỗi phẩm chỉ giữ được một quyền: Phó Trị Sự có quyền về Chánh Trị và Thông Sự có quyền về Luật Lệ, không được phạm đến quyền hạn giữa nhau. Quyền hạn và bổn phận của Phó Trị Sự và Thông Sự cũng không kém phần quan trọng và khó khăn trong vai trò Hội Thánh Em.
Chỉ cần hiểu chu đáo về sứ mạng của Bàn Trị Sự, và thực thi đúng cái tinh thần theo luật định về các chức vụ Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự, chúng ta cũng đã thấy giá trị của những gì ghi chép trong Tân Luật Pháp Chánh Truyền rộng lớn biết bao. Tôi vẫn hằng nghĩ rằng sứ mạng của Bàn Trị Sự thì vô cùng khó khăn, thật là nặng nề, chớ không phải dễ dàng như có người lầm tưởng. Bàn Trị Sự không chỉ giống như Hội Đồng Xã Ấp ngoài Đời, mà Bàn Trị Sự còn phải lo lắng đến đời sống tinh thần cũng như vật chất, nhiều và khó khăn hơn việc thi hành các thủ tục hành chánh móc nối giữa chư Tín Đồ và Hội Thánh. Để nói lên tầm quan thiết của Bàn Trị Sự Tân Luật Pháp Chánh Truyền đã dùng danh từ Hội Thánh Em để gọi Bàn Tri Sự thật là tuyệt hảo lắm vậy. Bàn Trị Sự rất gần gũi
với thiện nam tín nữ nên dễ dàng thay mặt cho Hội Thánh săn sóc đời sống của mọi Tín Đồ, đồng thời Bàn Trị Sự rõ ràng tường tận hơn ai hết các nguyện vọng của chư Tín Đồ hầu đệ trình lên Hội Thánh các nguyện vọng đó để Hội Thánh tầm phương pháp giải quyết thỏa đáng mọi thắc mắc và sáng kiến của chư Tín Đồ. Bởi vậy các tiếng nói của Nghị Viên, Phái Viên trong những lần Hội Nhơn Sanh thật vô cùng quan trọng, vì đó là những tiếng nói phản ảnh trung thực nguyện vọng của người Tín Đồ Cao Đài.
Tân Luật Pháp Chánh Truyền quả là bộ luật quí báu vô song. Càng đem khai triển càng thấy cái giá trị độc đáo trong đó. Chỉ mỗi cái vai trò của Bàn Trị Sự đã là vô cùng hay, vô cùng tốt đẹp rồi nói chi những vấn đề khác như vai trò ba vị Chưởng Pháp, ba vị Chánh Phối Sư trong Hội Thánh Cửu Trùng Đài, cùng các luật công cử, vân vân.
Suy suy gẫm gẫm, càng suy gẫm bao nhiêu về những luật điều trong cửa đạo Cao Đài tôi nhận thấy càng mến yêu bấy nhiêu nhứt là ý nghĩa đôi liễn trước cửa ngõ vào Nội ô Thánh Địa:
"CAO THƯỢNG CHÍ TÔN ĐẠI ĐẠO HOÀ BÌNH DÂN CHỦ MỤC.
ĐÀI TIỀN SÙNG BÁI TAM KỲ CỘNG HƯỞNG TỰ DO QUYỀN."
Huy Ngọc
Đặng Văn Hồng Lạc
Tài liệu được trích từ ĐẶC SAN ĐẠI ĐẠO - Kỷ niệm ngày Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (15-10-Bính Dần – 1926) trang 10 – 12.
Do Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý - Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành 12-1968.◙ |
|

VÀI NÉT SINH HOẠT ĐẠO SỰ CỦA TỘC ĐẠO SYDNEY
hư Hiền thân kính,
Thiểu Phẩm, dù khá bận rộn với đạo sự tại Tộc Đạo Sydney sau Tết Nhâm Dần, nhưng đã dành thời giờ đi Adelaide trợ giúp tổ chức tang lễ, theo lời thỉnh cầu của Bàn Trị Sự Hương Đạo Two Wells (Adelaide) và Đạo Hữu Nguyễn Thị Kim Phụng có bạn đời là tân Đạo Hữu Nguyễn Hồng Phúc vừa qui vị vào ngày 17-02-2022 (âl. 17-01-Nhâm Dần).
Nhân dịp nầy, tệ chức tham dự buổi hội nhóm bất thường vào ngày 27-01-Nhâm Dần (dl. 27-02-2022) theo lời mời của Hương Đạo, để công cử bổ túc cho Bàn Trị Sự Hương Đạo Two Wells. Nhân sự có mặt của 16 vị gồm: HT Nghiệp, C.CTS Phụng, ĐH Út, CTS Sáng, ĐH Tâm, ĐH Phụng, ĐH Kim Hương, ĐH Ngọc Huệ, ĐH Kim Huệ, ĐH Thanh Phượng, ĐH Hương, ĐH Bé, ĐH Tý, PTS Của, ĐH Hùng, ĐH Hằng. Kết quả chọn cử chức cho 3 vị sau đây: PTS Nguyễn Văn Hùng, TS Phạm Văn Bé và TS Lê Thị Thanh Phượng để tham gia điều hành phụ việc Đạo trong thời gian tới. Tộc Đạo Sydney đã lo chuẩn bị phẩm phục để các tân Chức Việc minh thệ, sau khi HT Nguyễn Thành Nghiệp bình phục.
Cũng cần nói thêm, Q. ĐTĐ Hiền Tài Nguyễn Thành Nghiệp lâm bịnh nan y, nên đã chính thức ủy nhiệm cho các Chức Việc những phần hành sau đây: CTS/Bankstown Trần Ngọc Điệp, Phụ Tá Nội Vụ, Xử Lý Thường Vụ Q.Đầu Tộc Đạo Sydney; CTS/Đường Nhơn Lý Tú Bình, Phụ Tá Ngoại Vụ, Xử Lý Thường Vụ Q.Đầu Tộc Đạo Sydney; Thông Sự/Canterbury Nguyễn Đức Nhân, XLTV/CTS kiêm Đầu Phòng Văn Tộc Đạo Sydney (theo Vi-Bằng phiên họp thường kỳ ngày 07-05-Nhâm Dần). Việc phân nhiệm nói trên, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, mà trước đây vì thiếu nhân sự, nên Q.ĐTĐ đảm trách quá nhiều công việc cho cả Tứ Vụ. Điển hình, trường hợp Q.ĐTĐ phải nhập viện nên ủy thác cho vị Chánh Trị Sự/ Lễ Vụ Hương Đạo Bankstown Trần Ngọc Điệp chứng lễ nhập môn tại Bịnh Viện RPA, theo thỉnh cầu của Cháu Cynthia
Quách Mỹ Châu (con gái của ĐH Quách Thạnh Tường) đang điều trị bịnh ung thư tại Bịnh Viện. Bàn Trị Sự đồng ý tiến hành cúng Đức Chí Tôn tại Thánh Thất NSW xin phép hành lễ Minh Thệ Nhập Môn cho Cynthia tại giường bịnh, trong lúc Cynthia đang tỉnh táo lấy dấu Thánh, niệm Hồng Danh Đức Chí Tôn và lập lại lời Minh Thệ 36 chữ, trước sự chứng kiến của các Chức Việc TS Nguyễn Đức Nhân, TS Lương Mai Hạnh, TS Nguyễn Thị Yến Mai và thân quyến. Hơn bốn tuần sau, Đạo Hữu Cynthia Quách Mỹ Châu thanh thản trở về với Thầy, Mẹ.
Hiền Tài Nghiệp dù đang thời kỳ điều trị, vô ra Bịnh Viện nhiều lần, qua những chặng đường thập tử nhứt sanh, qua petscan, biopsy, hóa trị v.v…. nay có phần tạm ổn. Song không thể không nhớ đến những tấm chân tình đã giúp đỡ, lo lắng, thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng bố hóa cho “tật bịnh tiêu trừ, thoát ly khổ nạn”, hầu gắng sức lập công bồi đức.
Về việc tương giao với sinh hoạt Cộng Đồng, theo phương châm: “Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền”, Hiền Tài Nguyễn Chánh Giáo cùng quý Chức Việc Hành Chánh và Phước Thiện Tộc Đạo Sydney đã tham gia bữa tiệc “farewell” Dân Biểu Chris Haynes, chính thức về hưu, được tổ chức tại Nhà Hàng Crystal Palace, Canley Heights.
Hiền Muội TS Nguyễn Thị Yến Mai và bạn đời là Andy Nguyễn Ngọc Ánh đã được Hiền Tài Nghiệp chính thức Khai Đàn thượng Thánh Tượng Thiên Nhãn Đức Chí Tôn và Chư Thiêng Liêng vào ngày Chủ Nhựt, 30-08-Nhâm Dần (dl. 25-09-2022) tại tư gia số 47 Fields Drive, Albion Park, Wollongong, NSW 2527, với sự tham dự của HH Hiền Tài Nguyễn Chánh Giáo, Qu. QVPTĐUC và nhiều Chức Việc cùng Đạo Hữu. Rất tiếc, vì hoàn cảnh khá xa Sydney, nên Tộc Đạo không dám mời đông người.
Ba ngày sau, thân phụ của Hiền Đệ Ánh là Đạo Tâm Nhạc sĩ cổ nhạc Nguyễn Ngọc Xuân qua đời đột ngột tại tư gia, vùng Bonnyrigg. Nay, sau khi Nhập Môn, Andy Nguyễn Ngọc Ánh trở thành một Đạo Hữu ngoan Đạo, ngày ngày chăm lo cúng kính, học Đạo, năng làm công quả, ngoài công việc quản lý nhà thuốc hàng ngày.
Hương Đạo Fairfield hiện nay rất thiếu Chức Việc, dầu may duyên công cử được Hiền Muội Phó Trị Sự Phạm Thị Duyên đã từng tìm hiểu và học Đạo, tham gia sinh hoạt Đạo sự một cách nghiêm chỉnh. Tộc Đạo kêu gọi các bạn trẻ hãy vì sự nghiệp Đại Đạo, cùng chung vai gánh vác.
Trước mắt còn nhiều kế hoạch sinh hoạt dở dang, nào là trùng tu Thánh Thất, thăm viếng bạn đạo, liên giao hành đạo phổ độ chúng sanh,... Tất cả đều chờ đợi các bạn trẻ vì nhiệt huyết tuổi thanh xuân, hãy xăng tay vén áo tô điểm cho Đạo, tức là độ cho chính mình, trên đường lập công bồi đức. Thầy hằng khuyên:
“Tân toan khổ hạnh phải trau giồi,
Bước tới đường dài chớ trở lui.
Công khó độ đời đừng nệ khó,
Phước dư đợi lúc hưởng Ơn Trời”.
(Thi Văn dạy Đạo - TNHT Q.2)
Thân chúc chư Huynh, Tỷ, Đệ, Muội an lạc.
Thanh Nguyên
... ... ...
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Ðạo Thầy... ... ... |
Trích từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1 bài 03 .◙ |
|
|


|
|
|
|
|
|
CẨN ÐỀ:
ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
TRÊN DÒNG ÐẠO SỬ |
|
|
Nét son di lại mãi ngàn sau,
Công nghiệp Giáo Tông sử chép làu.
Liêm chính gương trong lồng Thượng Viện,
Khoan hồng lượng cả tạc Ðài Cao.
Trường đời xa lánh lòng thư thái,
Bến giác quay về gót nhẹ phao.
Thọ mệnh ... lo tròn vai lãnh Ðạo,
Xây nền phổ độ lắm gian lao. |
|
|
14 tháng 7 Quí Sửu (12 Aout 1973)
HUỆ NGÀN |
|
|
Trích từ: Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung). Do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quí Sửu (1973).- Tái bản lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ năm Đinh Sửu 1997. |
|
|
|
|
|
|
CHÚC MỪNG
THỈNH AN THÁNH TƯỢNG THIÊN NHÃN |
|
tại tư gia ĐH Nguyễn Thị Yến Mai và Nguyễn Ngọc Ánh (Andy) ngày 25-09-2022 (Âll. 30-08-Nhâm Dần). Tại 4 Fields Dr, Albion Park, Wollongong. NSW 2577 |
|
|
Ánh dương rực sáng khắp trời Nam,
Mai nở Xuân sang cảnh rộn ràng.
Thỉnh tọa Đức Cao Đài tọa vị,
An ngôi Tiên, Thánh, Phật quy hoàn.
Thánh tâm chan rưới Ân hồng độ,
Tượng đức đong đầy Phúc hạnh ban.
Chí công tích đức tu nhân đạo,
Tôn tử đời sau hưởng phước nhàn. |
|
|
Thanh Nguyên
Tiết Xuân Nam Bán Cầu (2022) |
|
|
|
|
|
|
ĐI TÌM VẠN PHÁP |
|
|
|
Tôi đi trong tiếng gió Thu,
Trường xưa vẫn nhớ cho dù cách xa.
Vạn Pháp. – Nhẹ nhàng mỗi bước chân,
Tình thương mong rải khắp đường trần.
Đúng, sai, đem chứa tâm từ ái,
Nghĩa Đạo ơn Đời gởi bến nhân.
Kịch bản phận người đi mỗi kiếp,
Là duyên hay nghiệp định căn phần.
Đường về Trí Huệ qui nguồn cội,
Một tấm lòng thanh ở trọng chân. |
|
|
Georges Hall mùa Thu, 03-03-2022
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|
|
|
GỐC RỄ CỦA NHÂN |
|
|
|
Trời chiều nhìn lại chính mình,
Tìm trong sâu thẳm thấy hình Chí Linh.
Gốc rễ nguyên căn lực của nhân,
Tái sanh chuyển kiếp đã bao lần.
Con đường cộng nghiệp ngàn năm trước,
Tìm đến bến đời mượn xác thân.
Mỗi khắc đi qua là định nghiệp,
Mỗi giây cột mở tạo thành nhân.
Nào ai biết được nhân đầu ấy?
Để trả cho xong nợ kiếp trần. |
|
|
Georges Hall mùa Thu, 04-03-2022
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|
HÀNH GIẢ CHIỀU THU |
|
|
|
Dễ chi gặp đặng tri âm,
Đâu người tri kỷ xa xăm khó tìm
Nẻo đời hiểm trở mỗi ngày qua,
Nguồn Đạo Chí Linh mới thật nhà.
Minh triết tình yêu lòng quảng đại,
Cửa Hiền gởi phận quyết không xa.
Trải tâm công chánh thương đời khổ.
Bổn đức Thiên lương sống thật thà.
Nương ngọn sóng trần răn tánh tục,
Rừng thu tịch mịch khối tình ta. |
|
|
Georges Hall mùa Thu, 04-03-2022
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|
|

|
|
|
|
|
|
Ðưa mắt ngó muôn ngàn tử đệ,
Phật Thích Ca người khẻ thở dài.
Rằng: "Trong thế giới muôn loài,
Nếu chưa giác ngộ, ta ngồi chưa an.
Phải lìa chốn Niết Bàn giáng thế,
Ðem thân mình vớt kẻ trầm luân".
Ðó là lời Phật phân trần,
So cùng Người có đôi phần giống nhau.
Xin ghi chép một câu lịch sử,
Mà ai kia đã tự kỳ ra:
"Lỗi sanh từ trẻ tới già,
Ðạo Ðời hai lẽ, phải hòa hợp nhau.
Do Thiên Ðạo trau giồi Nhơn Ðạo,
Nhơn Ðạo tròn hoài bảo mới nên.
Nghĩa là bổn phận trọn niềm,
Ðạo người trọn vẹn mới nên Ðạo Trời". (1)
Ai đã thốt nên lời như vậy,
Ðã phân rành: phải, quấy, đục, trong?
Xin thưa: Ông Lê Văn Trung,
Mà ta xưng tụng Giáo Tông Cao Ðài.
Tập thơ ngắn đôi lời vắn tắt,
Tài thiển sơ dám thuật dông dài.
Nhắc qua tiểu sử của Ngài,
Những ai đã biết, những ai chưa tường.
Ðều thấy rõ việc làm thuở trước,
Của những người vì nước vì dân.
Vì đạo đức, vì nghĩa nhân,
Mà cam lao khổ, gian truân một thời.
... ... ... ... ... ... ... ... ..., |
|
|
Quân Ðội Cao Ðài
______________________________
(1) Nguyên văn: Do Thiên Ðạo mà lo Nhơn Ðạo, lo Nhơn Ðạo cho xong để tròn phận sự đối với Thiên Ðạo.
|
|
|
Trích từ: Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung). Do Ban Ðạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Quí Sửu (1973).- Tái bản lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ năm Đinh Sửu 1997. |
|
|
|
|
|
|

VĂN TẾ CHIẾN SĨ TRẬN VONG |
|
|
|
|
|
|
|
.jpg) |
|
|
|
|
|
Đầu nguồn Đại Việt,
Dựng nước an dân.
Dòng Sử Việt ngàn năm lập quốc,
Đức Hùng Vương dân tộc tiền nhân.
Những người chiến sĩ hiển Thần,
Hóa thân Hồn nước, kiếp trần núi sông.
Màu áo trận gió đồng cát bụi,
Nơi sa trường hào lũy cung thương.
Tình yêu Tổ quốc phi thường,
Máu xương nhuộm thắm con đường nước Nam.
Nào quản ngại vẫn kham gánh khổ,
Yêu quê hương mong tỏ tình non.
Phận dân trách nhiệm vuông tròn,
Đi theo vận nước sắt son mảnh lòng.
Đạp gió tuyết trời Đông danh Tướng,
Điểm sơn hà thịnh vượng dân sinh.
Trái tim ái quốc vẹn gìn,
Trả xong nợ nước, trả tình Chí Linh.
Chết là sống, Nguyên linh hiển Thánh,
Giải oan khiên hữu hạnh tiền duyên.
Xây đời dựng nghiệp chí hiền,
Quyết tâm giữ vững chủ quyền Tổ tiên.
Đường tấn hóa con thuyền luân chuyển,
Gió Nam Phong vinh hiển nhà Nam.
Dựng nền quốc triết siêu phàm,
Khéo vun tinh túy danh lam giống nòi.
Ngày nhặt thúc đưa thoi vò dịu,
Bóng quang âm nặng trĩu đầu cây.
Nhạn kêu não nuột gọi bầy,
Dương gian Tiên cảnh niềm xây khúc tình.
Dầu thỏa chí chơn linh thoát tục,
Dầu nhẹ nhàng phải lúc triều Thiên.
Biển mê sóng khổ chung thuyền,
Đỡ nâng xã tắc, dân quyền, nhân sinh.
Giúp nước thịnh nên hình tự chủ,
Đẹp trời Nam cẩm tú non sông.
Đường mây nhuần gội Ân Hồng,
Gởi theo tuế nguyệt tấm lòng thương dân. |
|
|
Ngày Lễ Quốc Tổ Hùng Vương. Mùng 10 tháng 3 ÂL
Georges Hall mùa Thu nước Úc, 02-04-2020
Ái Nhân |
|
|
|
|
|
|
|

Thở
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
ô Hấp hoặc Thở là sự trao đổi không khí giữa cơ thể với môi trường xung quanh. Trong động tác này, dưỡng khí oxy được đưa vào và thán khí CO2 được loại ra khỏi cơ thể. Dưỡng khí cần thiết để chuyển hóa thực phẩm ra năng lượng, cung cấp nhiên liệu cho các sinh hoạt của cơ thể. Không khí trong lành chứa 20% oxy.
Thán khí là sản phẩm của sự chuyển hóa kể trên, mà khi quá cao sẽ gây ra nhiều bất lợi cho sức khỏe.
Nơi xảy ra sự trao đổi oxy và thán khí là hệ thống vi huyết quản bao quanh phế nang . Mỗi bên phổi có khoảng 300 triệu phế nang mà khi trải phẳng ra, có thể phủ kín một nửa cái sân quần vợt.
Mỗi phút ta thở trung bình 15 lần. Một ngày ta thở ra hít vào 18.925 lít không khí. Mặc dù thở là một động tác không chủ động, nhưng con người có thể cố tình thay đổi nhịp thở vì nhu cầu nào đó. Chẳng hạn hít vào một hơi dài để lặn sâu dưới nước (nín thở qua sông) hoặc sắp đi qua vùng ô nhiễm mùi hôi. Nhưng không tự quyên sinh bằng cách ngưng thở vì những phản xạ tự chủ bắt ta phải thở hít thở ngay, để duy trì sự sống của con người.
Nhịp thở nhanh chậm tùy theo nhu cầu oxy của cơ thể và cũng tùy theo sự tích tụ thán khí cao hay thấp. Nói chung là tùy theo mức độ hoạt động cơ thể. Nhịp thở cũng thay đổi tùy theo cảm xúc. Khi hân hoan hớn hở, tức giận cành hông thì hơi thở dồn dập. Khi buồn rầu chán nản thì hơi thở uể oải, kéo dài thườn thượt. Những khi đó, ta có thể tập để điều hòa nhịp thở, thay đổi tâm trạng.
Ngoài ra, có “cơn đói không khí” (air hunger), trong đó ta cảm thấy như ngộp thở, bèn thở rất nhanh và sâu với hậu quả là chóng mặt quay cuồng, đổ mồ hôi, tim đập nhanh, tay chân tê dại. Nguyên do là khi thở dồn dập như vậy, thán khí trong máu xuống quá thấp, đưa tới mất cân bằng nồng độ acit/kiềm. Để điều trị, nạn nhân thường được cho hít thở vào một bao giấy kín, để lấy lại một chút thán khí, nhờ đó tình trạng trở lại bình thường.
Những cơ quan liên quan tới sự thở:
a- Mũi và các xoang của xương mặt:
Không khí đựơc hít vào thở ra qua hai lỗ mũi.
b- Khí quản
Khí quản là ống dẫn không khí, chạy từ họng (pharynx) xuống dưới. Nằm dưới mũi và miệng, họng là một thành phần của hệ tiêu hóa và hô hấp vì họng chuyên chở cả không khí lẫn thực phẩm.
Ở phía dưới, họng sẽ chia ra làm hai nhánh: thực quản để dẫn thực phẩm, khí quản dẫn không khí. Tiểu thiệt (epiglottis) là một nắp sụn mỏng hình lá, có màng nhầy bao che khí quản để tránh thức ăn lạc đường vào phổi khi ta nuốt. Ấy vậy mà đôi khi ăn vội vàng hoặc cười nói huyên thuyên khi ăn, thực phẩm cũng lạc lối rơi vào khí quản, chạy tọt xuống phổi, gây ra sặc sụa.
Chất nhờn tiết ra từ các tế bào của khí quản tiếp tục làm ẩm không khí và gạt bỏ vật lạ lẫn trong không khí mà lông mũi chưa loại hết. Đó là đàm, sẽ rơi vào dạ dày hoặc được ho bắn ra ngoài.
c- Phế quản
Là ống dẫn không khí từ khí quản xuống phổi.
Khí quản chia làm 2 phế quản chính, rồi các phế quản nhỏ hơn, tận cùng bằng những túi nhỏ gọi là phế nang. Phế nang là nơi diễn ra sự trao đổi không khí: oxy từ không gian được hấp thụ và carbon dioxit trong mao mạch phổi được đưa vào phổi rồi thải ra ngoài.
d- Phổi là một túi xơ đàn hồi có thể nở ra và ép vào qua sự chuyển động của xương lồng ngực và cơ hoành trong khi hô hấp. Dung tích của phổi khoảng trên dưới 6 lít, nhưng chỉ có khoảng 500 ml không khí tham dự vào việc hô hấp. Ngoài ra, phổi cũng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa thân nhiệt qua sự bốc hơi trong hơi thở.
Sự Hô Hấp
Hô hấp có 3 động tác:
a- Hít vào có tính cách chủ động, ngắn dài theo ý muốn để mang không phí vào phổi.
Trong khi hít vào thì cơ liên sườn thư giãn, lồng ngực mở rộng, nâng lên cao đồng thời cơ hoành hạ thấp khiến cho phổi có cơ hội tăng dung tích để chứa tối đa không khí.
b- Nín thở một thời gian ngắn để trao đổi không khí ở phế nang: oxy từ không khí chuyển sang hồng huyết cầu theo máu về tim rồi được phân phối cho các tế bào; thán khí từ cơ thể được phổi đưa ra ngoài.
c- Thở ra thụ động để loại thán khí. Trong động tác này, cơ hoành đẩy lên cao, lồng ngực trở về vị trí cũ, không khí được đẩy ra.
Nhịp thở trung bình là 15 nhịp trong một phút. Khi cơ thể vận động nhiều thì nhịp thở tăng để đáp ứng nhu cầu dưỡng khí và thải thán khí của cơ thể. Không như nhịp tim mà ta không kiểm soát được, con người có thể điều chỉnh nhịp hít thở nhanh chậm tùy theo nhu cầu.
Ở người khỏe mạnh, khi ngủ hoặc lao động nhẹ đều thở ra hít vào bằng mũi. Khi vận động mạnh hơn thì có thể hít vào bằng mũi và thở ra hoặc bằng mũi hoặc miệng để lấy thêm dưỡng khí.
Các nhà chuyên môn y học luôn luôn nhắc nhở là nên hít vào thở ra bằng mũi vì những lợi điểm sau đây:
a- Niêm mạc của mũi có chất nhờn và những sợi lông. Xoang thông với mũi và sản xuất ra nhiều chất nhờn. Không khí được các vi huyết quản chứa đầy máu ở mũi làm ấm nóng. Chất nhờn làm không khí ẩm hơn trước khi vào phổi. Không khí khô và lạnh có thể gây kích thích khó chịu cho phổi.
Lông mũi, chất nhờn chặn sự xâm nhập của các vật lạ có hại như vi khuẩn, bụi bậm rồi loại bỏ ra khỏi cơ thể khi ta hắt hơi. hoặc đưa xuống bao tử để được tiêu hủy. Thành ra, không nên cắt xén quá ngắn những sợi lông này.
b- Lỗ mũi nhỏ hơn miệng cho nên không khí ra từ từ, nhờ đó phổi có thì giờ lấy oxy và nhả CO2.
c- Với chức năng khứu giác, mũi phân biệt được mùi của không khí nhờ đó tạm hoãn thở trong khoảnh khắc để tránh hít vào khí có mùi độc hại gây khó chịu.
d- Với những sợi lông và chất nhờn, hô hấp qua mũi sẽ tránh được các bệnh nhiễm virus, vi khuẩn, bụi bậm ô nhiễm, giảm thiểu rủi ro viêm đường hô hấp như dị ứng, hen suyễn, sưng phổi, viêm họng…
e- Thở bằng mũi tạo ra chất nitric oxide ở các xoang mặt, là chất làm dãn huyết quản, máu tràn đầy, đưa tới tăng sự trao đổi không khí. Chất này cũng hiện diện trong dược phẩm nhóm nitroglycerin điều trị chứng Đau Thắt Ngực (angina) và trong Viagra để tạo sự cương cứng của cơ quan sinh dục nam, nhờ tác dụng dãn mạch máu.
Mũi có nhiều vai trò khá quan trọng, cho nên cũng cần được chăm sóc bằng các phương thức như sau:
-Lâu lâu dùng ngón tay bịt một bên lỗ mũi, hít vào thở ra mạnh dăm lần, rồi làm tương tự với mũi bên kia để lỗ mũi thông, loại trừ vật lạ. Cũng có thể hít các chất camphor, dầu cù là Nhị Thiên Đường cho thông mát lỗ mũi.
-Cũng lâu lâu vục mặt vào nước lạnh tinh khiết, hít vào một chút nước để rửa mũi rồi hỉ ra hoặc cho chẩy xuống miệng, nhổ ra ngoài. Nhớ đừng hít quá mạnh, đến nỗi sặc sụa, nước chui vào khí quản xuống phổi, ngộp thở. Có thể dùng nước muối sinh lý mua ở dược phòng.
Việc chăm sóc, rửa mũi này đặc biệt có lợi cho những ai sống ở nơi ô nhiễm không khí, bụi bặm, tràn ngập mùi săng dầu nhớt, sơn xe hoặc vào mùa dị ứng phấn hoa đồng thời cũng giảm khô mũi vì thời tiết thay đổi, ngồi lâu trong máy điều hòa không khí, trên máy bay.
Trong khi đó, nếu thường xuyên thở bằng miệng sẽ mất các ích lợi kể trên, đồng thời còn làm miệng khô, ngáy khi ngủ, ngưng thở tạm thời (apnea). Với trẻ em, thở miệng có thể đưa tới hư răng, hàm răng lệch khớp.
Nhiều người khó tính còn gán cho những ai thở bằng miệng là “đần”, là “ngớ ngẩn”, nhất là khi đương sự nằm ngủ mà miệng há hốc để thở, nhớt dãi quanh mép. Đây là một gán ghép có tích cách nhạo báng, nên tránh.
Cũng nên để ý tới khái niệm “thở bụng” và “thở ngực”.
Bé sơ sinh thường thở bụng trong đó cơ hoành đóng vai trò quan trọng. Khi hít vào, cơ hoành hạ thấp, bụng phình ra, hút nhiều không khí vào phía dưới của phổi, nơi mà sự lấy oxy-thải C02 có cường độ cao nhất. Với đà tăng trưởng, con người bỏ thói quen này và thở qua lồng ngực trong đó hơi thở thường nông và nhanh, đưa tới giảm trao đổi không khí. Nếu phối hợp cả hai cách thì sự hô hấp hoàn hảo hơn.
Thở để thư dãn
Ngoài nhu cầu “hô hấp để sống còn”, thở còn thường được dùng để xả stress, thư dãn tinh thần khi có những lo âu buồn phiền rồi giảm huyết áp, nhịp tim, cơ bắp bớt căng. Nhưng thở cũng phải đúng cách.
Bác sĩ Andrew Weil, Đại học Harvard phát biểu rằng: “Nếu phải giới hạn lời góp ý của tôi đối những ai muốn sống một cách khỏe mạnh với một mẹo thực tế duy nhất thì lời khuyên đó chỉ giản dị là làm sao học thở cho đúng cách”.
Thở đúng cách phải là hơi thở sâu, chậm và dài trong đó cơ hoành có vai trò chính.
Sau đây, xin gợi ý một phương thức tương đối giản dị, dễ áp dụng có thể thực hiện bất cứ lúc nào cảm thấy cần.
1- Tư thế có thể là nằm, ngồi hoặc đứng. Toàn thân thư dãn, xương sống ngay thẳng.
2- Đặt một bàn tay lên bụng để có thể cảm nhận sự phình ra thót vào của bụng.
3- Chậm rãi hít vào bằng mũi.
Tập trung vào đường đi của hơi thở từ mũi xuống ống dẫn khí, vào phổi đồng thời hạ thấp cơ hoành để bụng phình hút vào nhiều không khí. Sự tập trung này cũng để tránh nhiễu ý ngoại cảnh.
4- Nhín hơi thở trong vài giây.
5- Từ từ thở ra bằng mũi. Khi không khí đã ra gần hết thì thư dãn một vài giây rồi hít thở lại.
Kết luận
Đã có nhiều nghiên cứu cho hay, cảm xúc có ảnh hưởng lên nhịp thở. Nhịp thở nhanh và sâu khi tức giận; nhanh và nông khi sợ hãi; chậm-sâu khi thư dãn, hạnh phúc; chậm- nông khi buồn chán.
Như vậy thì thở đúng cách
Tiếp tục tập thở như vậy cho tới khi nhịp thở trở thành thói quen trong đời sống hàng ngày. Hoặc khi nào căng thẳng tinh thần thì ngồi tĩnh lặng hít thở sâu dài mươi phút là thấy thư dãn thảnh thơi ngay.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas- Hoa Kỳ
Nguồn: https://khoahocnet.com/2011/09/14/bs-nguyễn-y-dức-thở/.◙
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức qua đời tại Texas,
thọ 87 tuổi / Hà Vũ VOA 07/05/2022
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức, một trong những người nổi tiếng hoạt động trong lãnh vực y khoa tại hải ngoại cũng như trong nước, qua đời vào lúc 3 giờ 12 phút sáng ngày 5 tháng 5 năm 2022 tại tư gia thuộc thành phố Arlington, tây nam Dallas, tiểu bang Texas, hưởng thọ 87 tuổi. Theo thông tin từ gia đình.
Ông sanh tại Hải Dương vào năm 1935, cựu học sinh Chu Văn An, Hà Nội, di cư vào nam sau Hiệp định Geneve 1954.
Sau khi tốt nghiệp bác sĩ vào năm 1963, ông được Y khoa Đại học đường thuộc Viện Đại học Sài Gòn cấp Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc Gia vào năm 1971.
Ông là y sĩ hiện dịch trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, từng phục vụ tại Sư đoàn 25 ở Qui Nhơn và sư đoàn 7 Bộ Binh, Bệnh viện 3 dã chiến Mỹ Tho, Tổng Y viện Công hòa và Bệnh viện Trưng vương Sài Gòn.
Ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Đô thành Sài Gòn từ năm 1970 đến 1974.
Đến Mỹ năm 1975, ông định cư và hành nghề bác sĩ tại thành phố Baton Rouge, tiểu bang Louisana.
Xem thêm:
https://www.voatiengviet.com/a/bac-si-nguyen-y-duc-qua-doi-tai-texas-tho-87-tuoi/6561165.html |
|

Uyên Trang phụ trách
MÌ Ý SỐT KEM và NẤM
ì Ý sốt kem trộn nấm với phần sốt béo ngậy, độc đáo sẽ là gợi ý cho những bữa ăn mà không phải mất nhiều thời gian chuẩn bị. Chỉ mất 30 phút là bạn sẽ hoàn thành cách làm mì Ý sốt kem trộn nấm cho cả gia đình. Món này phù hợp cho những người ăn chay hoặc ăn mặn.
Mì Ý sốt kem nấm là món ăn có nguồn gốc từ Ý với hương vị thơm ngon. Sốt kem béo ngậy kết hợp giữa cheese và sữa kem, đem lại cho món mì này một sự hấp dẫn khó lòng bỏ qua. Để làm mì Ý sốt kem ngon, quan trọng nhất là sốt phải ngậy nhưng không quá béo và bí quyết luộc mì không bị nát.
Nguyên liệu: – cho 8 người ăn (có bán sẵn ở Woolworth, Coles, Aldi hoặc IGA…)
1. 500gr Mì Ý sợi dài - fettuccine.
2. 350gr Nấm tươi.
3. 3 tép Tỏi, 1 củ hành tây.
4. 2 muỗng canh dầu ăn.
5. ½ bó rau húng tây tươi hoặc húng tây khô (parsley).
6. 1 lọ 490gr Carbonara Pasta sauce hiệu Leggo’s.
7. 1 lọ thickened cream 600ml.
8. 100gr Phô mai Parmesan bào sợi.
9. Bột nêm nấm, tiêu xay.
HƯỚNG DẪN:
Sơ chế nguyên liệu:
1- Nấm rửa sạch, dùng dao xắt nấm thành từng lát.
2- Hành tây lột vỏ, thái nhỏ hạt lựu.
3- Húng tây, bỏ bớt phần cọng, rửa sạch, cắt nhuyễn.
4- Tỏi bóc vỏ, băm nhỏ.
Luộc mì Ý:
1- Chuẩn bị nồi nước sôi, cho thêm vào xíu muối và 2 muỗng cà phê dầu ăn để luộc mì không bị dính.
2- Thả mì vào, luộc sôi khoảng 10-15 phút tùy theo loại mì bạn sử dụng. Tốt nhất là kiểm tra bằng cách lấy 1 sợi mì, dùng tay bấm thử thấy mềm, không còn lõi trắng bên trong là được nhé.
3- Vớt mì ra rổ cho ráo nước.
Nấu sốt kem nấm:
• Cho dầu ăn vào chảo, phi thơm tỏi băm. Cho hành tây vào xào thơm.
• Cho tiếp nấm tươi vào xào cùng. Xào khoảng 1 phút. Thêm húng tây vào đảo đều.
• Kế tiếp cho vào 1 lọ thickened cream và 1 lọ Carbonara Pasta sauce.
• Thêm vào 1 ít gia vị bột nêm nấm và 1 ít tiêu, nêm cho vừa ăn.
• Đun lửa đến khi sốt kem sôi thì cho mì vào chảo, đảo đều cho đến khi sốt kem bám đều sợi mì thì tắt bếp.
Hoàn thành mì Ý sốt kem nấm:
Cho món ăn ra đĩa, rồi rắc phô mai bào sợi và rắc ít tiêu lên trên rồi thưởng thức.
Món này phải ăn nóng mới ngon nhé các bạn. Nào, mời các đầu bếp cùng vào bếp với Uyên nhé... ♬♬♬
|

Uyên Trang sưu tầm
Thôi để cho con nó khóc cũng được
Hai vợ chồng mới có con nhỏ, nửa đêm, cậu bé khóc om xòm. Hàng xóm phải gọi điện sang nhắc nhở. Sau khi nghe điện thoại anh chồng nói:
- Hàng xóm đang phàn nàn con mình khóc ghê quá em à.
Cô vợ trả lời:
- Vâng, để em hát ru con ngủ anh nhé. Một lát sau chuông điện thoại lại kêu reng reng. Nghe xong, chồng bảo vợ:
- Hàng xóm lại bảo thôi để cho con nó khóc cũng được...
Chôn ở đâu?
Một cặp vợ chồng đưa nhau đi thăm Thánh địa Giêrusalem. Chẳng may bà vợ đột ngột qua đời. Nhà chức trách bàn với ông chồng:
– Nếu ông muốn đưa bà về xứ thì phải tốn 5,000 đô la. Còn như mai táng bà ở ngay tại vùng đất Thánh này, thì sẽ chỉ có 200 đô la.
Ông chồng suy nghĩ một lát rồi trả lời rằng ông muốn đưa thi hài bà về quê quán hơn. Nhà chức trách ngạc nhiên:
– Tại sao phải chi 5,000 đô la, trong khi để bà nhà an nghỉ nơi Thánh địa này, chỉ tốn 200 đô?
Ông già góa bụa trả lời:
– Cách đây hơn hai nghìn năm. Ở Giêrusalem này, có một người đã chết, được chôn cẩn thận, nhưng ba ngày sau sống lại. Tôi thật không muốn gặp lại trường hợp rủi ro này.
Xếp hạng vào Thiên Đàng
Trong đoàn người xếp hàng chờ Thánh Peter (Thánh Phê-rô), người giữ cửa Thiên Đàng xét xem ai đáng được vào và ai phải xuống địa ngục, Thánh chỉ một người đàn ông:
– Anh là ai. Làm gì dưới trần gian?
– Thưa Thánh, con là phi công của hãng Qantas, cho đến lúc chết, chỉ 1 vợ, 1 con.
– Được, cho anh vào Thiên Đàng qua cửa danh dự.
Thánh chỉ một người kế tiếp:
– Anh là ai, làm gì dưới trần gian?
– Thưa Thánh, con là Linh mục, chánh xứ địa phận Cabramatta.
– Được, cho vào Thiên Đàng qua cửa thường.
Vị linh mục thắc mắc:
– Sao con là Linh Mục chỉ được vào bằng cửa thường, còn anh kia là phi công thôi lại được vào bằng cửa danh dự?
– Ta xét theo công đức của mỗi người lúc dưới dương thế, ngươi là Linh Mục thật nhưng mỗi khi ngươi giảng thì đa số ngủ gục, còn anh phi công kia, mỗi lần lái máy bay thì mọi người đều cầu nguyện.
|


Chủ trương của Bản Tin Hòa Hiệp
• Bản Tin Hòa Hiệp: Phổ biến tin tức Đạo sự gần xa; liên lạc, trao đổi kinh nghiệm hiểu biết; học hỏi, hợp tác thân hữu với các Tôn Giáo bạn, các Đoàn Thể xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu và mục tiêu hướng thượng, nhằm phục vụ không biên giới cho Đạo lẫn Đời.
• Bản Tin Hòa Hiệp: Xin đón nhận mọi ý kiến đóng góp xây dựng, bài vở với bất kỳ thể loại; ưu tiên trong lãnh vực biên khảo, nghiên cứu đạo giáo, triết học, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật phục vụ nhân sinh của chư vị thức giả đạo hữu, đạo tâm... miễn nội dung không nhằm mục đích: làm diễn đàn chính trị, bài kích cá nhân, tập thể; kỳ thị dưới mọi hình thức; gây chia rẽ nội bộ; đi ngược lại tôn chỉ, mục đích và đường lối của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh. |
|
|